Quyền Tiếp Cận Nhà Chung Cư, Công Trình Công Cộng, Tham Gia Giao Thông, Công Nghệ Thông Tin Và Truyền Thông Đối Với Người Khuyết Tâṭ

a. Giáo dục sức khỏe: Thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức về chăm sóc sức khỏe, nhằm mục đích tăng cường kiến thức và hiểu biết của NKT về việc tự bảo vệ và nâng cao sức khỏe của bản thân, gia đình, cộng đồng.

b. Thực hiện các biện pháp phòng ngừa: Phòng ngừa nhằm ngăn chặn khuyết tật, hạn chế những hậu quả do khuyết tật mang lại. Vì vậy, phòng ngừa phải được thực hiện ngay trong những bước chăm sóc sức khỏe ban đầu.

Để thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa cần tìm hiểu rõ nguyên nhân gây ra khuyết tật và có bao nhiêu nguyên nhân khuyết tật thì có bấy nhiêu biện pháp phòng ngừa. Tuy nhiên, có thể khái quát hoạt động phòng ngừa khuyết tật bao gồm: Phòng ngừa không để xảy ra khuyết tật; phòng ngừa để ngăn ngừa tình trạng ốm đau, tai nạn, rủi ro trở thành khuyết tật và phòng ngừa để ngăn ngừa khuyết tật gây nên hậu quả nặng hơn [5, tr.34].

c. Quản lý sức khỏe: Quản lý sức khỏe là mục tiêu lâu dài của ngành y tế, trong đó đối tượng NKT là đối tượng được đặc biệt lưu ý. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 21 LNKT, “trạm y tế xã có trách nhiệm lập hồ sơ theo dõi, quản lý sức khỏe NKT” [19, Điều 21]. Việc quy định cấp địa phương có trách nhiệm quản lý sẽ khiến việc chăm sóc sức khỏe cho NKT được kịp thời nhanh chóng, giúp cơ quan chức năng đưa ra được những biện pháp chăm sóc phù hợp. Tuy nhiên, do sự thiếu hiểu biết và yếu kém trong năng lực của cán bộ nhiều địa phương nên công tác này vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.

2.1.1.2. Khám bệnh, chữa bệnh

Điều 22 Luật NKT cũng đã có các quy định về khám chữa bệnh như: NKT được nhà nước bảo đảm để khám, chữa bệnh, sử dụng các dịch vụ y tế phù hợp, và được cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện các biện pháp khám, chữa bệnh phù hợp với khuyết tật. Trường hợp NKT là người mắc bệnh tâm

thần ở trạng thái kích động, trầm cảm, có ý tưởng, hành vi tự sát hoặc gây nguy hiểm cho người khác thì bắt buộc phải khám, chữa bệnh tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Trong hoạt động khám, chữa bệnh, pháp luật quy định cơ sở y tế phải có trách nhiệm ưu tiên khám, chữa bệnh cho NKT nói chung, đặc biệt là người bị khuyết tật nặng, phụ nữ khuyết tật có thai, NKT có công với cách mạng. Quy định này thể hiện sự thống nhất, phù hợp với Luật người cao tuổi, Luật khám bệnh, chữa bệnh, Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân và luật khác về ưu tiên, ưu đãi đối với những đối tượng có hoàn cảnh sức khỏe đặc biệt.

2.1.1.3. Phục hồi chức năng

Phục hồi chức năng được coi là nội dung quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe NKT. Phục hồi chức năng đối với NKT bao gồm các quy định về các biện pháp y học, giáo dục, xã hội nhằm hạn chế tối đa việc suy giảm chức năng của bộ phận cơ thể, đảm bảo cho NKT có cơ hội bình đẳng để hòa nhập xã hội. Theo quy định của pháp luật về NKT, nội dung phục hồi chức năng NKT bao gồm: Phục hồi chức năng thông qua các cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng và phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng. Chế độ phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng là giải pháp hữu hiệu để cân bằng sự mất cân đối giữa nhu cầu NKT với mức độ đáp ứng của xã hội, là biện pháp hữu hiệu về chi phí chữa trị cho các gia đình NKT có hoàn cảnh khó khăn.

Bên cạnh đó, LNKT Việt Nam 2010 đã quy định cụ thể về các chính sách hỗ trợ nghiên cứu khoa học, đào tạo chuyên gia, kỹ thuật viên, sản xuất trang thiết bị dành cho NKT nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của họ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

2.1.2. Quyền tiếp cận nhà chung cư, công trình công cộng, tham gia giao thông, công nghệ thông tin và truyền thông đối với Người khuyết tâṭ

Luật NKT đã có các quy định: NKT được đảm bảo thực hiện các quyền

Bảo vệ, thúc đẩy một số quyền dân sự của người khuyết tật ở Việt Nam - 9

khác nhau, trong đó có quyền tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội, được sống độc lập, hòa nhập công đồng,... Tuy nhiên là những người có một

số đặc điểm riêng về thể chất hoặc tinh thần, NKT chỉ có thể thực hiện được các quyền luật định nêu trên trong những điều kiện nhất định, trong đó đặc biệt là nhà chung cư, công trình công cộng, tham gia giao thông, công nghệ thông tin và truyền thông phải đảm bảo điều kiện tiếp cận đối với họ. Đó là việc NKT sử dụng được công trình công cộng, phương tiện giao thông... phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật để có thể hòa nhập cộng đồng.

2.1.2.1. Sử dụng nhà chung cư và công trình công cộng đối với Người khuyết tâṭ

Để NKT có thể sử dụng các công trình công cộng trong điều kiện tiếp cận được thì công trình đó phải có kiến trúc mà NKTcó thể đến và sử dụng được các chức năng trong công trình. Bộ Xây dựng đã ban hành Bộ quy chuẩn và tiêu chuẩn xây dựng công trình. Bộ quy chuẩn và tiêu chuẩn này bao gồm Quy chuẩn xây dựng Việt Nam QCXDVN 01: 2002 về Quy chuẩn xây dựng công trình để đảm bảo người tàn tật, sử dụng; Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam TCXDVN 264: 2002 Nhà ở và công trình- Nguyên tắc cơ bản để xây dựng công trình đảm bảo người tàn tật tiếp cận, sử dụng; Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam TCXDVN 265: 2002 Đường và hè phố- Nguyên tắc cơ bản để xây dựng công trình đảm bảo người tàn tật tiếp cận, sử dụng; Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam TCXDVN 266-2002 Nhà ở - Hướng dẫn xây dựng để đảm bảo người tàn tật tiếp cận, sử dụng. Đây là các văn bản quy định chi tiết các yêu cầu kỹ thuật tối thiểu bắt buộc phải tuân thủ khi xây dựng công trình nhằm đảm bảo để NKT tiếp cận, sử dụng. Theo đó, để đảm bảo cho NKT sử dụng hoặc tiếp cận được nhà chung cư cần phải đáp ứng các yêu cầu sau:

Có ít nhất 2% chỗ để xe cho NKT, có ít nhất 1 lối đi dành riêng cho NKT, đảm bảo 5% số căn hộ trong tòa nhà chung cư cho NKT sử dụng và tiếp cận được, bố trí cho NKT ở tầng thấp và tiện lợi cho việc đi lại, có tính đến cả yếu tố ngập lụt. Các công trình công cộng là các trụ sở cơ quan nhà nước, thư viện, bưu điện, siêu thị, ngân hàng…

phải bố trí đường dốc ở cửa ra vào, chỗ ngồi cho NKT. Bên cạnh đó, Chính phủ đã đề ra lộ trình cải tạo nhà chung cư và các công trình công cộng đã được xây dựng mà không đáp ứng được điều kiện tiếp cận đến năm 2025; nhằm mục tiêu xây dựng xã hội hòa nhập, xóa bỏ những rào cản về vật chất và xã hội đối với NKT… [1].

2.1.2.2. Tham gia giao thông đối với Người khuyết tâṭ

Đối với bất cứ ai thì nhu cầu tham gia giao thông là một nhu cầu bức thiết, hơn nữa, với NKT thì nhu cầu này càng lớn, bởi đó là con đường ngắn nhất để họ hòa nhập vào xã hội. Tùy vào mức độ và dạng tật, mà NKT tham gia giao thông có các phương tiện di chuyển khác nhau:

- Đối với việc đi bộ của NKT: Nhà nước phải đảm bảo xây dựng cơ sở hạ tầng với điều kiện NKT có thể tiếp cận và sử dụng được. Bên cạnh đó, quy định trách nhiệm của mọi người khi tham gia giao thông phải giúp đỡ NKT và giảm tốc độ nhường đường cho họ khi đến những nơi có vạch kẻ dành cho người đi bộ. Đối với phương tiện giao thông cá nhân: cần phải đáp ứng các yêu cầu quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và phù hợp với sức khỏe của NKT. Hơn nữa, NKT còn được ưu tiên trong việc học và cấp giấy phép lái xe đối với các loại phương tiện cá nhân này như tạo điều kiện học lý thuyết tại nhà, được sử dụng phương tiện phù hợp với dạng tật khi tham gia thi thực hành,…

- Đối với các phương tiện giao thông công cộng: Sự quan tâm của Nhà nước và xã hội đối với vấn đề phương tiện đi lại của NKT được thể hiện chủ yếu là trong các phương tiện giao thông công cộng với chương trình “phương tiện giao thông tiếp cận” [1]. Tại điều 41, 42 Luật NKT Việt Nam cũng đã quy định rằng NKT khi tham gia giao thông bằng các phương tiện giao thông công cộng được sử dụng các phương tiện hỗ trợ hoặc sự trợ giúp tương ứng; được phép mang theo và miễn phí khi mang phương tiện, thiết bị hỗ trợ phù

hợp. NKT đặc biệt nặng và NKT nặng được miên , giảm giá vé, giá dịch vụ

khi tham gia giao thông bằng môt số phương ti ện giao thông công cộng theo

quy định của Chính phủ. NKT được ưu tiên mua vé, được giúp đỡ, sắp xếp chỗ ngồi thuận tiện khi sử dụng các phương tiện giao thông công cộng. Phương tiện giao thông công cộng phải có chỗ ưu tiên cho NKT; có công cụ hỗ trợ lên, xuống thuận tiện hoặc sự trợ giúp phù hợp với đặc điểm của NKT và phải đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về giao thông tiếp cận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.

2.1.2.3. Quyền được tiếp cận công nghệ thông tin

Công nghệ thông tin giúp con người mở mang tầm nhìn, cập nhật thông tin, phát huy được tiềm năng của mình. Đối với NKT, công nghệ thông tin có thể giúp họ phát huy được vai trò đóng góp cho sự phát triển xã hội. Chính vì vậy Điều 43 Luật NKT năm 2010 đã quy định:

Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong lĩnh vực công nghệ thông tin ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin dành cho NKT. Nhà nước có chính sách miễn, giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và hỗ trợ khác cho hoạt động nghiên cứu, sản xuất, cung cấp dịch vụ, phương tiện hỗ trợ NKT tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông; hỗ trợ việc thu thập, biên soạn và xuất bản tài liệu in chữ nổi Braille dành cho NKT nhìn, tài liệu đọc dành cho NKT nghe, nói và NKT trí tuệ [19, Điều 43].

Luật Công nghệ thông tin năm 2006 cũng nhấn mạnh việc “Nhà nước tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân có hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin đối với NKT” [16], ví dụ có thể được Ngân hàng cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư để thực hiện dự án đầu tư, sản xuất kinh doanh…

Việc sử dụng các công trình và dịch vụ công cộng thuận lợi, phù hợp với đặc thù của NKT đảm bảo cho họ hưởng thụ quyền con người và các quyền

khác một cách đầy đủ cũng như tham gia bình đẳng vào mọi hoạt động của xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy do những khiếm khuyết về cơ thể hay chức năng, NKT vốn khó có cơ hội tham gia bình đẳng vào các lĩnh vực của đời sống xã hội do những rào cản xã hội mà một trong những rào cản đó là cơ sở vật chất không đảm bảo điều kiện tiếp cận đối với họ.

Qua đây ta thấy đối với nhà chung cư, công trình công cộng, tham gia giao thông, công nghệ thông tin và truyền thông của NKT được pháp luật quy định về cơ bản tương đối đầy đủ, toàn diện và đồng bộ, phù hợp với Công ước về quyền của NKT. Nếu được áp dụng, thực hiện đầy đủ trên thực tế thì NKT sẽ có cơ hội tiếp cận đầy đủ khi tham gia giao thông, nâng cao khả năng hội nhập cộng đồng của NKT.

2.1.3. Quyền tiếp cận công lí và quyền trợ giúp pháp lí của Người khuyết tâṭ

Công nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của NKT, tuyên bố “NKT có năng lực pháp lí trong tất cả các mặt của cuộc sống trên cơ sở bình đẳng như những người khác” [13]. Việt Nam đã ghi nhận quyền được trợ giúp pháp lí của NKT với tính cách là biểu hiện cụ thể của quyền tiếp cận công lí. Ở Việt Nam quyền trợ giúp pháp lí là loại hình dịch vụ được cung cấp miễn phí, có tính nhân văn sâu sắc nhằm trợ giúp những đối tượng thuộc chính sách xã hội của Nhà nước nói chung và NKT nói riêng, tạo cơ hội cho họ vươn lên hòa nhập bình đẳng, có hiệu quả vào đời sống xã hội, đời sống pháp lí nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ. Thông qua đó, nhận thức của xã hội về NKT, trách nhiệm của các cơ quan tổ chức và cán bộ, công chức nhà nước đối với NKT cũng được nâng cao lên.

Theo luật Trợ giúp pháp lý (TGPL) năm 2006 quy định tại Điều 3 được ban hành trước khi Việt Nam tham gia kí Công ước về quyền của NKT thì:

TGPL là việc cung cấp các dịch vụ pháp lí miễn phí cho người được TGPL theo quy định của luật này, giúp người được TGPL bảo

vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lí, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [18, Điều 3].

Khoản 3 điều 10 Luật TGPL cũng quy định “Người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa” [18, Điều 10] là một trong những đối tượng được hưởng sự TGPL. Như vậy, quyền TGPL là quyền của NKT với tính cách là một trong những nội dung cụ thể thuộc quyền TGPL quy định trong Công ước về quyền của NKT đã được pháp luật Việt Nam ghi nhận từ trước và vẫn đang tiếp tục được hoàn thiện theo tinh thần của Công ước.

Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 4 Luật NKT năm 2010, và quy định tại khoản 4 Điều 1 Nghị định số 14/2013/NĐ- CP ngày 5/2/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2007/NĐ – CP ngày 12/10/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TGPL thì mọi NKT đều được TGPL miễn phí. NKT được thực hiện quyền của mình thông qua các hoạt động như: Yêu cầu TGPL (tự mình hoặc thông qua người thân thích, người đại diện), lựa chọn, yêu cầu người thực hiện TGPL, thay đổi, rút yêu cầu TGPL, yêu cầu giữ bí mật về nội dung vụ việc TGPL, được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật, được khiếu nại, tố cáo về TGPL. Đây là các hoạt động cơ bản cần thiết để đáp ứng yêu cầu TGPL của mọi cá nhân. Chỉ có điểm khác là NKT được “miễn phí” khi thực hiện các yêu cầu TGPL. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng góp phần vào việc bảo đảm thực hiện các quyền dân sự của NKT, hạn chế các hành vi xâm phạm quyền của NKT, đồng thời thể hiện sự quan tâm của Nhà nước và xã hội đến các đối tượng khó khăn là những NKT.

2.1.4. Quyền bảo trợ xã hội đối với Người khuyết tâṭ

Bảo trợ xã hội đối với NKT là một trong những nội dung thể hiện rõ

quyền được bảo vệ của nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội vì mục tiêu an sinh xã hội. Bảo trợ xã hội được hiểu là sự quan tâm, giúp đỡ của nhà nước, xã hội và cộng đồng bằng những cách thức khác nhau đối với các đối tượng gặp phải những rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống mà vì những nguyên nhân khác nhau họ không thể tự lo liệu được cuộc sống tối thiểu của chính bản thân mình nhằm giúp họ hòa nhập cộng đồng.

Nội dung bảo trợ xã hội trong pháp luật quốc tế được quy định trong các công ước và khuyến nghị về quyền con người nói chung và NKT nói riêng. Tiêu biểu là tại Điều 28 Công ước quốc tế về quyền của NKT đã quy định rõ:

Các quốc gia thành viên của Công ước này thừa nhận quyền của NKT được hưởng mức sống thích đáng cho bản thân và gia đình, bao gồm đủ ăn, đủ mặc, có nhà ở và được cải thiện điều kiện sống thường xuyên, và cam kết thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo hộ và thúc đẩy việc thực hiện quyền này trên thực tế mà không có sự phân biệt đối xử vì lí do khuyết tật [13, Điều 28].

Việt Nam cũng đã quan tâm xây dựng chế độ bảo trợ xã hội từ rất sớm. Bảo trợ xã hội đã được ghi nhận trong văn bản pháp luật quan trọng nhất là Hiến pháp và được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật chuyên ngành khác. Theo quy định của pháp luật hiện hành, nội dung của bảo trợ xã hội đối với NKT được thực hiện với các quyền lợi cơ bản như trợ cấp xã hội hàng tháng, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng, nuôi dưỡng NKT trong cơ sở bảo trợ xã hội, cùng với đó là các quy định về cơ chế tổ chức thực hiện với trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan. Như vậy, NKT được hưởng bảo trợ xã hội không có sự phân biệt về địa vị, kinh tế, tôn giáo,... Mức độ trợ cấp bảo trợ xã hội đối với NKT không phụ thuộc vào sự đóng góp, thu nhập hoặc mức sống của họ mà chủ yếu phụ thuộc vào mức độ khuyết tật và nhu cầu

Xem tất cả 102 trang.

Ngày đăng: 30/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí