Chưa coi việc thực hiện các quy định của pháp luật lao động về người khuyết tật là trách nhiệm của các cấp, các ngành, của chính quyền địa phương. Một số tỉnh, thành phố chưa quan tâm bố trí đủ cán bộ (cả về số lượng và chất lượng) để kiểm tra, giám sát, theo dõi, đề xuất những trường hợp cụ thể cần trợ giúp của địa phương.
Thứ tư, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa được quan tâm đúng mức, thường mới chỉ dừng lại ở việc đưa tin hội nghị hoặc một số hoạt động tặng quà nhân ngày lễ, tết; công tác tuyên truyền chưa đi vào chiều sâu. Do đó việc nhận thức về quyền của người lao động khuyết tật, về các chính sách đối với người khuyết tật, về vị trí, vai trò của người khuyết tật, về các biện pháp để tăng cường bảo vệ quyền của người khuyết tật… chưa thực sự đúng đắn, hoặc vì lợi ích kinh tế mà người sử dụng lao động cố tình không tuân thủ.
Thứ năm, các công trình công cộng chưa thuận lợi, các phương tiện truyền thông như báo mạng, ti vi… hay công nghệ thông tin chưa khai thác triệt để các ứng dụng dành cho người khuyết tật trong việc học văn hóa, học nghề tạo cơ hội việc làm, tạo thu nhập cho người khuyết tật. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa đáp ứng các yêu cầu về điều kiện vật chất, kĩ thuật khiến vấn đề an toàn lao động, vệ sinh lao động cũng không được đảm bảo. Chính vì vậy, người khuyết tật vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi trong quá trình tham gia lao động.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN
CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
3.1. Yêu cầu đặt ra cần phải nâng cao hiệu quả pháp luật lao động trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật
3.1.1. Về mặt khách quan
Bất kì các quy định pháp luật nào cũng đều được Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong thực tiễn. Ngược lại, khi được áp dụng vào thực tiễn, các quy định này sẽ bộc lộ những điểm phù hợp và chưa phù hợp. Khi quan hệ xã hội thay đổi thì hệ thống các quy định của pháp luật cùng cần phải hoàn thiện để đáp ứng tốt hơn nhu cầu thực tiễn. Chính vì lẽ đó, điều chỉnh một số quy định của pháp luật lao động về người khuyết tật cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế đất nước và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và tổ chức thực hiện tốt các chế độ, chính sách bảo vệ quyền của người khuyết tật là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay của nước ta. Người khuyết tật là nhóm người dễ bị tổn thương và có nhiều nguy cơ bị vi phạm quyền con người, do đó, họ là nhóm người cần nhất chỗ dựa là pháp luật để thực hiện quyền của mình.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo Vệ Quyền Của Người Khuyết Tật Trong Các Quy Định Của Pháp Luật Lao Động Việt Nam Hiện Hành
- Quy Định Về Chế Tài Đối Với Các Hành Vi Vi Phạm Quyền Của Người Khuyết Tật
- Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 10
- Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 12
- Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 13
- Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 14
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
Trong pháp luật lao động, quyền của người khuyết tật được ghi nhận, bảo vệ và có những biện pháp bảo đảm thực hiện, điều đó đã tạo điều kiện cho người khuyết tật thực hiện các quyền bình đẳng với những người lao động bình thường khác trong lĩnh vực lao động, từ đó giúp họ tư tin vươn lên làm chủ cuộc sống, phát triển và hòa nhập xã hội. Trong xu thế hiện nay, khi nhân loại đã thay đổi nhận thức về người khuyết tật từ chỗ coi họ là đối tượng cần được cưu mang, giúp đỡ trở thành đói tượng cần được tạo cơ hội phát triển để hoạt động và cống hiến, đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật để tạo cơ sở pháp lý khẳng định và nâng cao vị thế của người khuyết tật, tạo điều kiện để họ được thực hiện các quyền cơ bản của mình trong điều kiện đổi mới hiện nay.
Các tổ chức quốc tế nhất là Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã thông qua
nhiều Công ước và Khuyến nghị về người khuyết tật. Tính đến tháng 5 năm 2014, ILO đã thông qua 189 Công ước và 200 khuyến nghị. Việt Nam là thành viên của ILO và chúng ta đã tham gia phê chuẩn một số Công ước của tổ chức này như: Công ước 111 về chống phân biệt đối xử tại nơi làm việc; Công ước số 29 về chống lao động cưỡng bức; Công ước số 138 về quy định tuổi tối thiểu được đi làm việc; Công ước số 187 về Khung chính sách thúc đẩy an toàn vệ sinh lao động... Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta chưa phát triển nên một số Công ước mà ta phê chuẩn vẫn chưa được nội luật hóa. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của người khuyết tật nói chung và pháp luật lao động về bảo vệ quyền của người khuyết tật nói riêng; đồng thời nghiên cứu và phê chuẩn những Công ước khác phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của đất nước để từng bước hội nhập với pháp luật và thông lệ quốc tế trong lĩnh vực lao động, việc làm. Bởi lẽ người khuyết tật là một lực lượng lao động cần thiết cho xã hội nên vấn đề bảo vệ quyền của họ không chỉ là một vấn đề pháp lý mà còn là vấn đề đạo lý, không chỉ là vấn đề quốc gia mà còn là vấn đề quốc tế.
3.1.2. Về mặt chủ quan
Ở Việt Nam, lần đầu tiên quyền của người lao động khuyết tật và vấn đề bảo vệ quyền của họ được thể chế hóa bằng pháp luật đánh dấu một bước phát triển mới về chất của pháp luật lao động trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, khuôn khổ pháp luật chưa bao quát được hết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn và chưa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới và hội nhập quốc tế. Pháp luật lao động về bảo vệ quyền của người khuyết tật chưa cụ thể hóa được một số quy định của Bộ luật lao động như: Quy định về dạy nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật, quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về chăm lo cho đời sống, sức khỏe của người khuyết tật, về bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khuyết tật, chống lại mọi hành vi phân biệt đối xử… chưa giải quyết được các mâu thuẫn giữa pháp luật và thực tiễn. Nhiều quy định ban hành ra không được
thực hiện nghiêm túc vì thiếu cơ chế về nguồn lực, tổ chức thực hiện và chế tài xử lý răn đe. Các quy định pháp luật về người khuyết tật chưa được rà sát, hệ thống hóa nên có hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn; Chưa có cơ chế liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa các quy định pháp luật và người thực thi pháp luật, cũng như cộng đồng xã hội nhằm bảo vệ quyền của người khuyết tật. Thường thì Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền cứ ban hành các quy định, còn các tổ chức và cá nhân có sử dụng lao động khuyết tật cứ sử dụng nhưng theo hướng mục tiêu lợi nhuận của cơ chế thị trường thay vì đảm bảo tối đa quyền lợi về mọi mặt của người khuyết tật. Bên cạnh đó còn thiếu các quy định chặt chẽ về cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý những hành vi vi phạm trong bảo vệ quyền của người khuyết tật. Hiện nay, chưa có một văn bản cụ thể quy định chi tiết về thanh tra đối với loại lao động đặc thù này. Việc xử lý các vi phạm lại càng yếu, chế tài xử phạt lại chưa đủ sức răn đe. Đây là nguyên nhân dẫn đến tâm lý của một số chủ sử dụng lao động thường sử dụng một số ít người khuyết tật vào làm việc hoặc là trốn tránh không nhận vào làm việc, nhất là ở khu vực ngoài nhà nước. Cuối cùng, công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt là các quy định về bảo vệ quyền của người khuyết tật trong cộng đồng dân cư, nhất là người lao động và người sử dụng lao động còn chưa được quan tâm đúng mức.
Chính vì lẽ đó, yêu cầu bức thiết đặt ra là phải nhanh chóng hoàn thiện các quy định pháp luật lao động Việt Nam, không ngừng củng cố và nâng cao hiệu quả thực thi của pháp luật lao động về bảo vệ quyền của người khuyết tật trên thực tế. Có như vậy, quyền và lợi ích của một bộ phận không nhỏ người lao động mới được đảm bảo và điều đó sẽ tạo động lực thúc đẩy người khuyết tật nỗ lực phấn đấu nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước trong tình hình mới.
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật lao động trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật
Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền của người khuyết tật, trước mắt cần rà soát lại toàn bộ các quy định của pháp luật lao động về bảo vệ
quyền của người khuyết tật cho đồng bộ và hợp lý, tránh chồng chéo. Xây dựng, sửa đổi và bổ sung các quy định pháp luật phù hợp với tình hình thực tế, với điều kiện kinh tế, tâm tư nguyện vọng của người khuyết tật để các văn bản này nhanh chóng đi vào cuộc sống và phát huy có hiệu quả hơn nữa trong công tác bảo vệ, chăm sóc, giúp đỡ người khuyết tật, tạo điều kiện cho người khuyết tật tham gia vào quan hệ lao động, hòa nhập cộng đồng. Nhanh chóng xây dựng và ban hành các Nghị định, Thông tư hướng dẫn chi tiết thi hành Bộ luật Lao động 2012 về lao động là người khuyết tật, bổ sung, hoàn thiện các quy định trong Luật người khuyết tật và các văn bản hướng dẫn thi hành trên cơ sở nguyên tắc dân chủ, cùng tham gia của người khuyết tật và các tổ chức của người khuyết tật trong quá trình soạn thảo, ban hành. Thường xuyên tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách đã ban hành ở địa phương, cơ sở, từng ngành và liên ngành;
Hai là, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của xã hội đối với người khuyết tật bằng cách: Tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hóa để các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và người dân tham gia vào công tác bảo vệ, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho người lao động khuyết tật hòa nhập với cộng đồng, hạn chế, ngăn chặn thái độ kì thị, phân biệt đối xử với người khuyết tật. Khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức xã hội, các cá nhân tham gia hoạt động trợ giúp người khuyết tật, Nhà nước tạo điều kiện về vốn, cơ sở vật chất, chính sách để Hội, Hiệp hội, các cơ sở sản xuất kinh doanh của người khuyết tật hoạt động có hiệu quả. Đa dạng hóa các hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức của cộng đồng, xã hội đảm bảo dễ dàng tiếp cận và sử dụng cho người khuyết tật như: Xây dựng và xuất bản các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật nhằm động viên, hướng dẫn người khuyết tật tham gia lao động, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị vi phạm; Nêu những tấm gương điển hình về người khuyết tật tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, vươn lên làm giàu chính đáng; Tuyên truyền sâu, rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là ở cấp xã, phường để mọi người dân chia sẻ, chăm lo cho người khuyết tật trong đó có NSDLĐ, phổ biến và triển khai các biện pháp phòng ngừa khuyết tật, chính sách của Nhà nước đối với người khuyết tật.
Ba là, tiếp tục hỗ trợ đào tạo dạy nghề, giải quyết việc làm cho người khuyết tật. Đầu tư xây dựng trường lớp, biên soạn chương trình giảng dạy phù hợp với sức khỏe, tâm lý của người khuyết tật. Nâng cao công tác đào tạo đội ngũ giáo viên giảng dạy. Tiếp tục mở rộng chương trình đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người khuyết tật. Thông qua Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, trợ giúp về kiến thức, vốn, điều kiện sản xuất kinh doanh để người khuyết tật có thể tự lập, tự lao động sản xuất, nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo.
Bốn là, đẩy mạnh các hoạt động chăm sóc sức khỏe, chỉnh hình, phục hồi chức năng cho người khuyết tật trong các doanh nghiệp có sử dụng lao động và ngay trong cộng đồng người khuyết tật sinh sống. Triển khai chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, hướng hoạt động phục hồi chức năng đến vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn. Có chính sách giúp đỡ các cơ sở sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cải tiến kĩ thuật, đầu tư cơ sở vật chất để bảo vệ an toàn tính mạng và sức khỏe cho người lao động là người khuyết tật.
Năm là, phát triển hợp tác quốc tế về bảo vệ quyền của người khuyết tật trong lĩnh vực việc làm. Nhà nước ta cần tiếp tục duy trì, mở rộng hợp tác quốc tế với các tổ chức, cá nhân trong khu vực và trên thế giới trong hoạt động trợ giúp người khuyết tật; đẩy mạnh việc ký kết và nội luật hóa các điều ước quốc tế về bảo vệ quyền của người lao động khuyết tật trong pháp luật quốc gia; đẩy mạnh trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, trợ giúp kĩ thuật, đào tạo cán bộ làm việc cùng với người khuyết tật; tranh thủ các nguồn viện trợ để đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất chăm sóc người lao động khuyết tật được hiệu quả hơn.
3.3. Một số kiến nghị cụ thể
3.3.1. Về các quy định của pháp luật lao động
Thứ nhất, Nhà nước cần hoàn thiện các quy định về bảo vệ quyền lao động của người khuyết tật. Pháp luật lao động cần quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động và người lao động là người khuyết tật trong việc phát triển thị trưởng lao động nói chung và bảo vệ quyền của người khuyết tật nói riêng. Theo
đó, Nhà nước phải chú trọng đến công tác dạy nghề, chất lượng việc làm bên cạnh việc phát triển cơ hội việc làm cho người khuyết tật.
Về dạy nghề: Quyền học nghề là một trong những quyền lợi quan trọng mà người khuyết tật được hưởng nhằm giúp họ nâng cao trình độ nghề phù hợp với từng công việc nhất định, từ đó cơ hội kiếm được một việc làm ổn định với mức thu nhập khá sẽ mở rộng hơn đối với họ. Do vậy, Bộ luật lao động nên bổ sung quy định về quyền học nghề vào khoản 1, điều 176 BLLĐ 2012. Theo đó khoản này được bổ sung như sau: “Nhà nước bảo trợ quyền lao động, quyền học nghề, tự tạo việc làm của lao động là người khuyết tật, có chính sách khuyến khích và ưu đãi người sử dụng lao động tạo việc làm và nhận lao động là người khuyết tật vào làm việc theo quy định của Luật người khuyết tật”.
Trên cơ sở quy định của pháp luật, Chính phủ cần cụ thể hóa quyền học nghề của người khuyết tật thông qua các quy định về dạy nghề bằng cách nhanh chóng ban hành Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ luật lao động về lao động là người khuyết tật. Trong đó, nghị định cần quy định các chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho người khuyết tật được học nghề như: Giảm 50% học phí đối với người mà khả năng lao động bị suy giảm từ 31% đến 40%; tăng mức hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước đối với người khuyết tật học nghề, bổ túc nghề bị suy giảm khả năng lao động từ 41% trở lên không hưởng lương, sinh hoạt phí hoặc học bổng cho phù hợp với điều kiện kinh tế hiện nay thay vì 100.000đồng/người/tháng như trước kia. Ngoài ra người khuyết tật học nghề ngắn hạn (dưới 1 năm) còn được hỗ trợ một phần tiền ăn, ở, đi lại trong thời gian học nghề từ nguồn kinh phí hằng năm dành cho dạy nghề của Chính phủ. Mức hỗ trợ sẽ phải tính toán trên cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước hiện nay nhưng vẫn đảm bảo giảm bớt phần nào khó khăn cho người khuyết tật khi tham gia học nghề. Bởi lẽ theo quy định tại Thông tư liên Bộ Y tế - Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội số 32/TT-LB ngày 27/11/1985 về tiêu chuẩn thương tật 4 hạng (mới) và hướng dẫn cách chuyển đổi các hạng thương tật cũ, cách khám giám định thương tật theo các hạng thương tật mới thì người bị mất từ 41% - 60% sức lao động do thương tật có tổn thương rõ rệt, mức độ
trung bình về giải phẫu - chức năng, có thể kèm tổn thương quan trọng về mặt tâm lý và xã hội, làm ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ, khả năng lao động và sinh hoạt xã hội. Nói chung, người khuyết tật dạng này còn khả năng tham gia lao động hoặc công tác, nhưng cần có điều kiện lao động hoặc công tác phù hợp, hoặc giảm bớt thời gian, định mức lao động trong ngày, trong tuần hoặc cần có các trang bị, phương tiện hỗ trợ để duy trì sức khoẻ và hoạt động lâu dài. Do vậy việc pháp luật quy định tăng mức ưu đãi hỗ trợ cho đối tượng người khuyết tật này là hoàn toàn phù hợp với những khó khăn mà họ phải gánh chịu.
Bên cạnh đó, Bộ luật lao động cần bổ sung thêm quy định về chính sách ưu đãi cho các cơ sở dạy nghề, tổ chức dạy nghề cho người khuyết tật và cụ thể hóa quy định này trong nghị định hướng dẫn thi hành như: Các cơ sở dạy nghề được nhà nước giúp đỡ về cơ sở vật chất ban đầu về trường, lớp, trang thiết bị; cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật khi có dự án dạy nghề, dự án phát triển sản xuất, được vay vốn với lãi suất thấp từ quỹ việc làm cho người khuyết tật của Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các nguồn vốn của Nhà nước; Cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật được ưu tiên giao đất hoặc cho thuê đất ở những địa điểm thuận lợi cho việc tổ chức dạy nghề và sản xuất kinh doanh; Cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật được miễn các loại thuế. Thủ tục miễn thuế theo quy định của Bộ tài chính… Có như vậy mới khuyến khích các cơ sở tích cực tham gia vào hoạt động dạy nghề cho người khuyết tật và mở rộng cơ hội được đào tạo nghề cho đối tượng lao động đặc biệt này.
Với giáo viên dạy người khuyết tật, pháp luật lao động cần bổ sung quy định về chính sách ưu đãi cho họ đảm bảo tính thống nhất với các văn bản pháp luật có liên quan như: Luật người khuyết tật 2010, Luật dạy nghề 2005. Chẳng hạn: Quy định mức hưởng trợ cấp ngoài tiền lương hàng tháng cho giáo viên tương ứng với thời gian dạy nghề cho người khuyết tật theo quy định tại Luật người khuyết tật; Đối với giáo viên dạy nghề ở những vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn còn được hưởng phụ cấp đặc thù theo quy định của Chính phủ…