Kiến Nghị Hoàn Thiện Quá Trình Thực Hiện Pháp Luật Về Dạy Nghề Đối Với Người Khuyết Tật

- Tăng cường khả năng tiếp cận và cung cấp các dịch vụ việc làm cho người khuyết tật. Sớm thành lập hội đồng tư vấn doanh nghiệp để tư vấn về lĩnh vực tiếp nhận người khuyết tật vào làm việc, bao gồm đại diện các doanh nghiệp và cơ quan, tổ chức hữu quan. Hình thành kênh dạy nghề cho người khuyết tật thông qua cơ quan Trung ương của các tổ chức của người khuyết tật; quan tâm hỗ trợ đầu tư bằng nguồn kinh phí ngân sách hoặc vay tín dụng ưu đãi đối với các cơ sở, doanh nghiệp dạy nghề và giải quyết việc làm cho người khuyết tật.

- Nâng cao khả năng đáp ứng các yêu cầu về tuyển dụng lao động của người khuyết tật, đảm bảo cho người khuyết tật được tiếp cận với nội dung dạy, học và đào tạo phù hợp, sau đó hỗ trợ đầy đủ trong quá trình chuẩn bị trước khi có việc làm. Hệ thống đào tạo của những trường dạy nghề chính quy, các trung tâm đào tạo việc làm Nhà nước cũng như tư nhân cần từng bước tham gia vào công tác đào tạo người khuyết tật với sự hỗ trợ của Nhà nước. Cải tiến và hoàn thiện sớm giáo trình, giáo án, thiết bị dạy nghề và đội ngũ cán bộ làm công tác dạy nghề cho người khuyết tật. Bên cạnh đó doanh nghiệp cần tham gia vào quá trình đào tạo, đồng thời tạo cầu nói giữa đầu ra của các trường dạy nghề và đầu vào của doanh nghiệp.

- Hỗ trợ khởi nghiệp kinh doanh, tự tạo việc làm và cung cấp kỹ năng quản trị doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ cho người khuyết tật, đồng thời giúp cho tiếp cận với các nguồn vốn vay ưu đãi theo quyết định số 71/2005/QĐ- TTg ngày 05/4/2005 của Thủ tướng chính phủ về cơ chế quản lý, điều hành Quỹ quốc gia về việc làm có quy định ưu tiên cho các cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật; Gắn dạy nghề tạo việc làm với doanh nghiệp. Nghiên cứu, ưu tiên triển khai thực hiện để phát triển rộng rãi mô hình dạy nghề theo các dự án nhỏ.

- Có quy định các cơ quan, đơn vị hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp

ưu tiên tuyển dụng vào các vị trí, công việc phù hợp với trình độ chuyên môn đào tạo và sức khoẻ để đảm bảo việc làm, thu nhập cho người khuyết tật; Có chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho người khuyết tật (hỗ trợ kinh phí hoặc cho vay tín dụng ưu đãi để mua sắm thiết bị, dụng cụ hành nghề) sau học nghề.

3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện quá trình thực hiện pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật

Khi xây dựng luật về NKT và các chính sách để đưa các luật này vào thực tiễn cuộc sống cần đặc biệt chú ý đến khả năng thực hiện sao cho mọi vấn đề liên quan đến thực hiện đều được tính đến và có thế giải quyết được một cách dễ dàng. Hiệu lực của pháp luật và chính sách về khuyến khích dạy nghề đối với NKT sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào những biện pháp được áp dụng để thực hiện những quy định của pháp luật.

Thứ nhất, nâng cao trách nhiệm của Nhà nước, xã hội, gia đình, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Bên cạnh việc ban hành các chính sách cụ thể, Nhà nước phải kiểm tra, giám sát quá trình thực thi các quy định của mình trên thực tế để kịp thời khắc phục những tồn tại, tạo cơ hội tối đa cho NKT có thể được học nghề, nâng cao tay nghề, hòa nhập xã hội. Cần giám sát một cách minh bạch và tạo ra các kênh đền bù có thể tiếp cận được trong trường hợp xảy ra vi phạm. Ở đây bao hàm cần có một bộ máy của Chính phủ như thanh tra hoặc ủy ban quyền con người quốc gia, một cơ quan bao gồm cả Chính phủ và các tổ chức xã hội để giám sát quá trình thực hiện. Có thể kết hợp với các cơ quan tư pháp để dễ tiếp cận và có khả năng giải quyết vấn đề. Các cơ quan nhà nước có thể cấp kinh phí hỗ trợ cho các cơ sở dạy nghề dưới hình thức khoản tiền trợ cấp hoặc khuyến khích về thuế để trang trải các khoản phát sinh thêm liên quan đến đào tạo nghề cho NKT…

Các biện pháp hỗ trợ đào tạo nghề có thể được áp dụng cho cơ sở dạy nghề, NKT có thể thể hiện dưới các hình thức như: Khuyến khích về tài chính

(trợ cấp hoặc giảm thuế); Lợi ích bằng hiện vật, ví dụ cho mượn hoặc tặng thiết bị dạy nghề cho NKT, hỗ trợ nguyên liệu cho thực hành...Dịch vụ tư vấn hoặc cung cấp thông tin về các cơ sở dạy nghề và nhu cầu của người học nghề. Trong đó, dưới hình thức hỗ trợ tài chính, số tiền trợ giúp có thể dùng vào việc trang trải cho những chi phí liên quan đến vấn đề học nghề của NKT, ví dụ các chi phí liên quan đến tạo môi trường học nghề phù hợp; khuyến khích vật chất cho NKT hoặc thường thấy hơn cả là cho chính doanh nghiệp, những khuyến khích như vậy có thể được coi như những phần thưởng cho doanh nghiệp và tuyệt đối không được tính trừ vào phần các chi phí thêm do việc nhận NKT. Bên cạnh đó, xã hội, gia đình cũng cần phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho NKT tham gia học nghề, không được hạn chế khả năng của họ. Về phía các cơ sở dạy nghề cần nâng cao chất lượng dạy nghề, tìm hiểu thông tin thị trường việc làm để sau khi hoàn thành khóa học NKT có thể tìm được việc làm một cách dễ dàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.

Việc thực hiện thành công các sáng kiến đào tạo nghề đảm bảo cơ hội bình đẳng và đưa NKT hòa nhập với cộng đồng đòi hỏi có sự hợp tác của tất cả các ngành, cơ quan, tổ chức trong xã hội như: Các cấp có thẩm quyền ở địa phương hoặc các cơ quan liên quan như Sở lao động ở tỉnh; Các liên đoàn lao động và doanh nghiệp có NKT làm việc; Các cơ sở đào tạo nghề cho NKT; và các cơ quan địa phương như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, các tổ chức tự lực và các tổ chức của NKT.

Thứ hai, tăng cường nhận thức cho cộng đồng, xã hội và của chính bản thân NKT. Thực tiễn cho thấy những chính sách quy định trong pháp luật dù thế nào cũng không thể giải quyết được toàn bộ các vấn đề đang đặt ra đối với NKT. Trở ngại lớn nhất đối với phần đông những NKT chính là cách nhìn nhận và thái độ của xã hội đối với họ. Vấn đề giáo dục nhận thức của gia đình và xã hội mang ý nghĩa quan trọng thông qua việc hiểu biết về quyền của NKT, xây

Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam - 13

dựng ý thức tôn trọng NKT trong hệ thống giáo dục các cấp, kế thừa truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc, thay đổi thái độ phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật, nhìn nhận và động viên sự đóng góp của NKT…Những vấn đề này cùng với luật pháp sẽ góp phần tạo nên sự hỗ trợ thiết thực để thúc đầy NKT tham gia tốt hơn vào đời sống xã hội. Đối với cộng đồng, cần nâng cao nhận thức về NKT, đối xử với họ trước hết bằng lòng tôn trọng như những người khác, sau đó là sự thấu hiểu và sẻ chia với những khó khăn họ gặp phải trong cuộc sống, ủng hộ, động viên họ vượt lên trên hoàn cảnh để khẳng định bản thân, hòa nhập vào cộng đồng, tổ chức các hoạt động như các ngày hội giao lưu trao đổi để mọi người hiểu rõ hơn về NKT. Thay đổi nhận thức của chủ sử dụng lao động về khả năng làm việc của NKT, thay đổi định kiến cho rằng NKT không đảm bảo sức khỏe làm việc, nhận NKT thêm phiền phức, tốn kém, kinh doanh không có lãi. Cần hiểu rằng khuyết tật không chỉ là phải những khiếm khuyết về thể chất và tâm sinh lý mà còn do thái độ của xã hội, các hành động ứng xử và gạt bỏ tạo ra một môi trường làm tăng thêm những khuyết tật này. Tránh các định kiến văn hóa tiêu cực, phân chia NKT thành những người phải chịu hậu quả của cái gọi là số phận, sự trừng phạt của thần thánh hoặc tiền định. Bên cạnh những lợi ích của việc sử dụng lao động NKT, cần phải nhận thức đây cũng là trách nhiệm đối với xã hội. Vì nếu không được làm việc thì NKT sẽ phải sống phụ thuộc, gánh nặng gia đình và cộng đồng.

Đối với NKT, tất cả những nỗ lực của Nhà nước và pháp luật cũng như của cộng đồng sẽ không có ý nghĩa gì nếu chính NKT không tự ý thức được giá trị của bản thân, không có ý chí vượt lên trên khó khăn, thử thách, ỷ lại vào gia đình, xã hội hay tự ty, thu mình lại. Chính NKT hơn ai hết phải tìm hiểu, nắm bắt được pháp luật và chính sách về mình, tận dụng quyền của mình, sự trợ giúp của nhà nước, cộng đồng, gia đình để khắc phục khó khăn, khẳng định bản thân, sống hòa nhập, cống hiến cho đất nước như tất cả mọi

thành viên trong xã hội. Để NKT được học nghề không chỉ trông chờ vào các chính sách xã hội hay tình thương. Về phía NKT cũng phải tìm cách tiếp cận thông tin từ các cơ sở dạy nghề để lựa chọn nghề phù hợp với khả năng của mình, đồng thời NKT phải tự trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng chuyên môn, sẵn sàng đảm đương được công việc của nhà tuyển dụng để khẳng định được mình là những người “tàn mà không phế”. Đã đến lúc, cần phải có hành lang pháp lý chặt chẽ hơn về trách nhiệm của người quản lý. Có như vậy, NKT mới được hưởng đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý như những người học nghề bình thường khác, góp phần đưa ước nguyện “hãy đưa chúng tôi hòa nhập với cộng đồng” của NKT trở thành hiện thực.

Để nâng cao nhận thức cộng đồng, nhận thức của NKT về vấn đề khuyết tật nói chung, về học nghề của NKT nói riêng, Tổng cục Dạy nghề (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) - đơn vị quản lý nhà nước về vấn đề NKT chỉ đạo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng kế hoạch của địa phương triển khai việc phổ biến, tuyên truyền Luật Người khuyết tật. Các Bộ, ngành khác xây dựng kế hoạch phổ biến, tuyên truyền các văn bản pháp luật liên quan đến NKT trong phạm vi nhiệm vụ được giao. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần được thực hiện trên phạm vi cả nước, tập trung vào khu vực nông thôn, miền núi. Đồng thời yêu cầu Ủy ban nhân dân các cấp có cam kết về thực hiện tuyên truyền phổ biến Luật Người khuyết tật. Ngân sách nhà nước và ngân sách địa phương cần phân bổ tài chính cho hoạt động truyền thông, phổ biến pháp luật NKT.

Thứ ba, phát triển hệ thống thông tin phản hồi của NKT: Việt Nam đã xây dựng và vận hành thí điểm hệ thống thông tin phản hồi của NKT. Tháng 6/2010, Văn phòng Điều phối các hoạt động người tàn tật (NCCD) đã khai trương hệ thống thông tin phản hồi về chính sách, công tác NKT. Hệ thống ra đời nhằm tạo cơ hội cho NKT thực hiện tốt hơn quyền và nghĩa vụ của mình,

đồng thời giúp NCCD thu thập, xử lý thông tin về những bất cập nảy sinh trong công tác hỗ trợ NKT, những vi phạm trong quá trình triển khai Luật NKT và các chính sách liên quan... Kết quả thử nghiệm cho thấy, đây là một hướng đi đúng, rất hữu ích cho các cơ quan hữu quan cũng như bản thân NKT trong quá trình thực hiện các hoạt động hỗ trợ NKT.

Tuy nhiên trên thực tế, số lượng những trường hợp liên hệ và phản hồi thông tin rất ít. Theo báo cáo thường niên của NCCD, hết năm 2010, có tới gần 35% số NKT không biết chữ, 21% NKT chưa tốt nghiệp tiểu học. Lớp may công nghiệp của Trung tâm dạy nghề cho người khuyết tật và trẻ mồ côi Thành phố Hồ Chí Minh. Việc phản hồi thông tin của NKT rất đặc thù, khi hầu hết họ phải có sự trợ giúp của những người thân, trong khi gia đình của phần lớn NKT đang gặp nhiều khó khăn. Hầu hết NKT sống trong những gia đình nghèo. Nhiều người khiếm thính còn mù chữ hoặc chỉ học đến tiểu học, nhận thức của NKT rất hạn chế khi tiếp cận với các thông tin về văn bản chính sách pháp luật. Ngay cả khi vào được trang web của NCCD, họ vẫn cần có người giải thích các nội dung đó bằng ngôn ngữ ký hiệu thì mới hiểu được. Hiện nay một hệ thống chỉ với một địa chỉ thư điện tử và 3 số điện thoại liên hệ, trong khi đội ngũ cán bộ tại văn phòng còn ít nhưng đảm nhiệm quá nhiều công việc.

Nếu những vấn đề của NKT có thể được giải quyết ngay tại địa phương thì sẽ tốt hơn, nhanh chóng hơn là phải thông qua các hình thức phản hồi như viết đơn kiến nghị, điện thoại... theo đúng quy trình xử lý NCCD đưa ra. Để đảm bảo những kiến nghị của NKT được giải quyết triệt để, để NKT tin tưởng vào hệ thống phản hồi, cần có sự kiểm tra, giám sát và đánh giá kết quả phản hồi. Luật NKT đã có hiệu lực từ 1/1/2011 với nhiều điểm tiến bộ so với pháp lệnh về người tàn tật. Nhưng để Luật thực sự đi vào cuộc sống, đảm bảo cho NKT biết và thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách hiệu quả nhất,

thực tế cho thấy, cần đa dạng hơn nữa kênh thông tin phản hồi để những người mắc phải các dạng khuyết tật khác nhau có thể tiếp cận và góp tiếng nói của mình, để NKT từng bước cải thiện chất lượng cuộc sống. Vì vậy, trong thời gian tới cần đẩy mạnh việc triển khai hệ thống thông tin phản hồi nhằm tăng cường sự tham gia của NKT và các tổ chức của NKT trong việc giám sát thực hiện chính sách liên quan đến đào tạo nghề cho NKT tại Việt Nam, từ đó các cơ quan hữu quan nắm bắt được nhu cầu và nguyện vọng được học nghề của NKT cũng như của các cơ sở dạy nghề.

Thứ tư, nghiên cứu xây dựng các chương trình đào tạo nghề phù hợp với khả năng của NKT và phù hợp với nhu cầu thị trường lao động. Nên tách dạy nghề cho NKT ra khỏi cường công tác giám sát và chế tài đối với doanh nghiệp về thực hiện quy các chương trình dạy nghề, không nên gắn chung một số chương trình hiện nay, xã hội hóa công tác dạy nghề cho NKT; có chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp nhà nước tham gia dạy nghề gắn với việc làm tại chỗ cho NKT; tăng cường chính sách hỗ trợ, khuyến khích dạy nghề tạo việc làm tại chỗ cho NKT; tăng định nhận NKT vào làm việc; khuyến khích các đơn vị dịch vụ việc làm xây dựng các dịch vụ hỗ trợ việc làm cho NKT, và hỗ trợ tăng cường sự hợp tác giữa các đơn vị liên quan trong việc cung cấp, kết nối các dịch vụ việc làm cho NKT; xây dựng cơ sở dữ liệu, thống kê về việc làm của NKT, bao gồm tỷ lệ có việc làm, tỷ lệ học nghề, có việc làm sau học nghề, tỷ lệ duy trì được công việc bền vững. Trong tương lai người ta ngày càng chú trọng tới cơ hội việc làm mở, Công ước do Liên hợp quốc ban hành về quyền của NKT cũng có đề cập đến việc mở ra thị trường mở cho NKT. Tuy nhiên nhiều NKT cũng có thể gặp khó khăn để chuyển từ môi trường làm việc được bảo trợ sang thị trường lao động mở. Để làm cho phương pháp thị trường lao động mở hoạt động, cần thiết phải có các chương trình đổi mới để hỗ trợ bắc cầu từ việc làm được bảo trợ sang thị trường mở

bao gồm cả dạy việc, đào tạo nghề tại chỗ, các chương trình lấy kinh nghiệm làm việc và thực tập phi chính thức. Ngoài ra, cần quy định về ngành nghề dành riêng cho NKT, chặt chẽ hơn trong các quy định về tổ chức dạy nghề cho NKT như: Giáo án phù hợp, chính sách thỏa đáng cho giáo viên dạy văn hóa, dạy nghề, phiên dịch cho người khiếm thính. Thời gian học nghề đối với NKT cần phải linh hoạt, tăng thêm thời gian so với người không khuyết tật. Vì hiện nay, NKT đã có mặt và tham gia vào mọi lĩnh vực của cuộc sống. Nên lồng ghép vấn đề dạy nghề cho NKT vào các chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.

Thứ năm, đẩy mạnh công tác xã hội hóa việc trợ giúp về dạy nghề, giáo dục văn hóa, giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo cho lao động khuyết tật. Tăng cường khả năng tiếp cận và cung cấp các dịch vụ việc làm cho họ. Bên cạnh đó, có biện pháp tổ chức thực hiện tốt các quy định về tiếp cận cho NKT, các công trình xây dựng và giao thông công cộng được thiết kế mới và xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo phải theo quy định hiện hành để phù hợp với việc tiếp cận của NKT, tạo điều kiện thuận lợi cho NKT dễ dàng đi lại, tiếp cận các hoạt động xã hội, học nghề và làm việc. Ngoài ra, cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào công tác tuyển dụng và hỗ trợ tạo việc làm cho NKT. Tập trung chỉ đạo các địa phương thành lập quỹ việc làm cho NKT. Cần phát huy hơn nữa hiệu quả của quỹ đất này và cần thực hiện nghiêm túc chế độ thưởng phạt doanh nghiệp trong việc thực hiện các quy định của nhà nước về việc tuyển dụng lao động là NKT.

Ðể tạo cơ hội cho NKT hòa nhập cộng đồng, cần có sự phối hợp đồng bộ, có hiệu quả của các ngành hữu quan và sự quan tâm của cộng đồng, cần tổ chức phổ cập và nâng cao trình độ văn hóa cho NKT, tạo điều kiện cho NKT học tập; đào tạo nghề cho NKT thực hiện ở mọi trình độ văn hóa, gắn dạy nghề với tạo việc làm có thu nhập.

Xem tất cả 122 trang.

Ngày đăng: 21/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí