Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam - 14

Chú trọng công tác can thiệp sớm, phục hồi chức năng cho NKT ngay từ khi còn nhỏ, qua đó góp phần giảm khó khăn trong học nghề và tìm việc làm sau này. Cụ thể, thực hiện các dịch vụ phát hiện sớm những khuyếm khuyết ở trẻ trước khi sinh và trẻ sơ sinh; tuyên truyền, tư vấn và cung cấp dịch vụ về chăm sóc sức khỏe sinh sản, triển khai thực chương trình can thiệp sớm, phẫu thuật chỉnh hình, cung cấp dụng cụ trợ giúp người khuyết tật, đặc biệt là tuyến y tế cơ sở. Đồng thời thay đổi nhận thức của chủ sử dụng lao động về khả năng làm việc của NKT. Có những chính sách khuyến khích dạy nghề cho NKT tại cộng đồng, vì phần lớn NKT sống ở gia đình, gắn với cộng đồng dân cư nên dạy nghề, tạo việc làm cho NKT ở cộng đồng là thích hợp và thuận lợi nhất. Ðầu tư nâng cao năng lực, trang bị kiến thức, kỹ năng, tay nghề, phát huy khả năng của lao động NKT.

Với NKT ở vùng sâu, vùng xa, khu vực nông thôn, nên quan tâm và thực hiện "Chương trình tạo việc làm tại chỗ", tạo điều kiện cho NKT và gia đình của họ tự tạo việc làm, có thu nhập, giúp họ tự tin, hòa nhập tốt hơn với xã hội.

Thứ sáu, cần phổ biến, tuyên truyền giáo dục chính sách và pháp luật về lao động tàn tật sâu rộng và thường xuyên hơn nữa. Tuyên truyền phổ biến luật pháp và chính sách đối với lao động khuyết tật đến các ngành, các cấp (đặc biệt là cấp xã, phường), các doanh nghiệp, cộng đồng, gia đình có NKT và bản thân lao động khuyết tật đặc biệt nhằm nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về vấn đề khuyết tật, lao động khuyết tật, vị trí, vai trò của cộng đồng trong việc trợ giúp lao động khuyết tật hòa nhập cộng đồng. Bản thân mỗi lao động khuyết tật phải hiểu biết những quyền cơ bản của mình, những chính sách được xây dựng để đáp ứng nhu cầu của họ, đặc biệt trong lĩnh vực dạy nghề. Mục đích cuối cùng là tạo cơ hội bình đẳng cho lao động khuyết tật,

hạn chế và loại trừ dần thái độ bàng quan, phân biệt đối xử, thương hại lao động khuyết tật. Những tấm gương điển hình về vượt khó đi lên và gương các doanh nghiệp tiếp nhận lao động khuyết tật vào làm việc cần được đưa lên báo, đài, các phương tiện thông tin đại chúng đề động viện, khuyến khúc và tạo niềm tin cho lao động khuyết tật. Công tác này đặc biệt quan trọng vì đây chính là chìa khóa để thay đổi nhận thức, tư duy của cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và toàn bộ cộng đồng xã hội, đảm bảo điều kiện cho lao động khuyết tật thực hiện các quyền của mình và hòa nhập cộng đồng.

Thứ bảy, tăng cường các hoạt động tuyên truyền phổ biến, giáo dục về NKT và pháp luật, chính sách về NKT. Các phương tiện thông tin đại chúng có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền các kinh nghiệm, thành tựu và bài học cho toàn xã hội. Các chiến dịch tuyên truyền về quyền và nghĩa vụ của NKT, của doanh nghiệp và các bên có liên quan khác trong khuôn khổ quy định của pháp luật, các quy định, chính sách đã được ban hành thường đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi pháp luật nhằm khuyến khích tạo việc làm cho NKT và áp dụng những mô hình tốt. Tuyên truyền có vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi nhận thức xã hội và tạo ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành vi của công chúng. Có nhiều cách làm khác nhau như chiến dịch truyền thông chung qua đài, báo và quảng cáo trên truyền hình, những chiến dịch nhằm vào một nhóm mục tiêu nào đó với sự tham gia của chính những NKT và những người có liên quan. Nhiệm vụ này không chỉ là của các cơ quan chuyên trách mà còn được đặt ra đặc biệt đối với các cơ quan, tổ chức thông tin đại chúng. Hoạt động này nên tập trung vào việc tuyên truyền phổ biến, giáo dục về pháp luật và chính sách về dạy nghề và học nghề đối với NKT, lấy NKT làm đối tượng nhằm mục đích để hiểu rõ về quyền lợi của mình để thực hiện, phát huy hiệu quả, đồng thời cũng phải lấy đông đảo mọi tầng lớp nhân dân làm đối tượng nhằm mục đích

nâng cao nhận thức của người dân và xã hội về các vấn đề khuyết tật; tăng cường phổ biến các ví dụ điển hình về các nỗ lực thành công của NKT vượt lên trên hoàn cảnh và số phận, những NKT làm việc tốt, những NKT tự tin hòa nhập và cống hiến cho xã hội. Điều này sẽ có tác dụng mạnh mẽ trong việc nâng cao nhận thức của xã hội đối với NKT cũng như động viên, khích lệ chính NKT có niềm tin và nghị lực để sống độc lập, hòa nhập trong cộng, khẳng định năng lực của bản thân; tăng cường thông tin về những NKT có hoàn cảnh khó khăn cần sự trợ giúp để động viên nguồn lực tinh thần và vật chất từ những nhà hảo tâm trong và ngoài nước. Chính việc tuyên truyền về những tấm gương NKT vượt lên số phận để sống có ích cho xã hội có tác động rất lớn tới tâm lý của cộng đồng người khuyết tật. NKT thường ít có cơ hội tiếp cận được thông tin về chính sách, luật pháp và những chương trình, dịch vụ có ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân. Sự thiếu thông tin, kiến thức này làm hạn chế sự tham gia của họ vào đời sống kinh tế, chính trị, xã hội nói chung. Chính vì thế, tuyên truyền phải là kênh thông tin quan trọng góp phần để cộng đồng xã hội hiểu rõ hơn về người khuyết tật, hiểu rõ hơn những tâm tư, nguyện vọng của họ - nguyện vọng được sống, được làm việc, được chia sẻ từ cộng đồng và từ các chính sách xã hội. Các nhà cung cấp dịch vụ như các trung tâm dạy nghề cần được tham vấn về những quy định luật pháp mới để họ có thể chuẩn bị cho những thay đổi mà luật pháp mới thường đưa ra. Ví dụ, một quy định luật pháp mới về dạy nghề hòa nhập cho NKT sẽ ảnh hưởng lớn tới vai trò của những nơi cung cấp dịch vụ việc làm có bảo trợ dành cho NKT và họ cần phải được tham vấn để biết cần phải hoạt động như thế nào trong hệ thống tổng thể mới.

Thứ tám, tăng cường triệt để công tác kêu gọi và tranh thủ sự đóng góp, hỗ trợ về vật chất, tri thức, kinh nghiệm và tinh thần từ các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước để thực thi pháp luật và chính sách về NKT, hỗ trợ

NKT được học nghề. Tuy nhiên để đảm bảo hiệu quả, tránh tình trạng lãng phí, những chương trình, quỹ hỗ trợ này phải dược quản lý, tổ chức một cách hệ thống, phân bố hợp lý ở các địa phương, vùng miền và phải được giám sát chặt chẽ. Bên cạnh đó, có một vấn đề khá mới mẻ, đó là vấn đề phát triển hệ thống thông tin phản hồi của người khuyết tật. Những năm gần đây, Việt Nam đã xây dựng và vận hành thí điểm hệ thống thông tin phản hồi của NKT. Hệ thống này giúp NKT tiếp cận với thông tin và phản ánh thông tin, những vấn đề bất cập trong dịch vụ hỗ trợ, những vi phạm trong việc triển khai luật và chính sách liên quan đến đào tạo nghề đối với NKT tới các cơ quan hữu quan, để đưa ra những biện pháp hoặc những điều chỉnh cần thiết nhằm hỗ trợ NKT phát triển và hoà nhập vào xã hội. Kết quả thử nghiệm cho thấy, đây là một hướng đi đúng, rất hữu ích cho các cơ quan hữu quan cũng như bản thân NKT trong quá trình thực hiện các hoạt động hỗ trợ NKT. Vì vậy, trong thời gian tới cần đẩy mạnh việc triển khai hệ thống thông tin phản hồi nhằm tăng cường sự tham gia của NKT và các tổ chức của NKT trong việc giám sát thực hiện chính sách liên quan đến đào tạo nghề cho NKT tại Việt Nam, từ đó các cơ quan hữu quan nắm bắt được nhu cầu và nguyện vọng được học nghề của NKT cũng như của các cơ sở dạy nghề.

Thứ chín, có các biện pháp và tạo điều kiện cho Hội đồng tư vấn doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Hội đồng tư vấn doanh nghiệp cần tuyên truyền nâng cao nhận thức cho chủ sử dụng lao động và khuyến khích họ trong tuyển dụng lao động là NKT phải có những chương trình, kế hoạch cụ thể để tuyên truyền vận động các nhà tuyển dụng lao động hiểu rõ hơn về khả năng lao động, những nhu cầu chính đáng của NKT cà những quyền lợi mà doanh nghiệp được hưởng từ các chính sách khi tuyển dụng và tạo việc làm cho NKT; đồng thời các doanh nghiệp cũng được giới thiệu những địa chỉ có thể trợ giúp tư vấn các vấn đề liên quan đến lao động khuyết tật khi cần thiết.

Hỗ trợ khởi nghiệp kinh doanh, tự tạo việc làm và cung cấp kỹ năng quản trị doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ cho NKT; đồng thời giúp họ tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi, ưu tiên cho các cơ sở sản xuất dành riêng cho lao động khuyết tật. Thường xuyên tổ chức kiểm tra giám sát việc thực hiện các chính sách đã ban hành ở địa phương, cơ sở, từng ngành và liên ngành. Cụ thể là tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách việc làm đối với NKT, chú trọng điều kiện làm việc, vệ sinh an toàn lao động, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, bố trí việc làm cho NKT và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3


Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam - 14

Để khắc phục những hạn chế trong công tác dạy nghề cho NKT cần hoàn thiện chính sách pháp luận và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, các cơ sở dạy nghề, cá nhân và sự nỗ lực vươn lên của bản thân NKT. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng quan tâm tới công tác dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật. Để người khuyết tật được học nghề, có việc làm ổn định, thực sự hòa nhập được với cộng đồng rất cần sự chung tay góp sức của các cấp, các ngành, các cơ quan chức năng ở địa phương và toàn xã hội.Nhìn chung những quy định của pháp luật hiện hành về chế độ dạy nghề đối với NKT tương đối hoàn chỉnh, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số bất cập dẫn đến hiệu quả của công tác dạy nghề chưa cao. Vì vậy trong thời gian tới cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về NKT nói chung và chế độ dạy nghề đố với NKT nói riêng.

KẾT LUẬN


Dạy nghề không chỉ là vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với NKT mà còn có ý nghĩa với toàn xã hội. Nhận thức rõ được vai trò của đào tạo nghề nghiệp đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách tương đối đầy đủ, hoàn thiện, phù hợp với pháp luật quốc tế đối với công tác dạy nghề đối với NKT. Cùng với sự thay đổi của cộng đồng quốc tế trong nhận thức và hành động, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có những quy định tương thích có hiệu lực cao để đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật dưới góc độ quyền con người. Với sự ghi nhận một cách chính thức khái niệm "Người khuyết tật", Luật Người khuyết tật 2010 đã trở thành văn bản pháp luật cao nhất về NKT từ trước tới nay và là cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện công tác dạy nghề cho NKT. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng quan tâm tới công tác dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật. Sau nhiều năm thực hiện, Nhà nước đã tạo được hành lang pháp lý và môi trường xã hội tương đối thuận lợi cho NKT hòa nhập cộng đồng, góp phần cải thiện đời sống của NKT. Những quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề dạy nghề đối với NKT trên thực tế đã thu được một số kết quả giúp cho NKT nâng cao được tay nghề, tìm được việc làm một cách dễ dàng, giúp NKT hòa nhập vào cộng đồng. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế khiến nhiều NKT không có cơ hội có việc làm, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.

Đất nước ta đang trong tiến trình tạo lập nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả mọi công dân trong xã hội; tạo điều kiện khơi dậy mọi nguồn lực, nhân lực để tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước vì mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Hơn lúc nào hết pháp luật về dạy nghề đối với NKT càng cần phải thực hiện đồng bộ, không rào cản đối với NKT nói riêng và hoạt động thực hiện hệ thống pháp luật nói chung. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ và Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), yêu cầu về nguồn nhân lực có trình độ cao là rất lớn, vấn đề dạy nghề để tạo việc làm cho người lao động là mối quan tâm bức thiết của người dân nói chung và NKT nói riêng. Có việc làm, tham gia vào lao động tạo ra của cải vật chất cho xã hội không chỉ giúp NKT phục hồi thể chất mà còn nâng cao vai trò vị trí của họ trong cộng đồng. Cái đích cuối cùng của pháp luật dạy nghề đối với NKT là tạo cho họ công ăn việc làm phù hợp, giúp họ sẽ có cuộc sống ổn định, có hạnh phúc tương lai, giảm bớt nỗi đau cho bản thân và gánh nặng cho gia đình và xã hội. Bởi vậy, bên cạnh những chính sách của nhà nước thì cũng rất cần đến sự hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức có kinh phí để đưa ra được những mô hình hoạt động thiết thực đi vào đầu tư cho việc dạy nghề cho người khuyết tật, hỗ trợ họ sau khi học xong nghề có đủ điều kiện hành nghề. Để khắc phục những hạn chế trong công tác dạy nghề cho NKT cần hoàn thiện chính sách pháp luận và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, các cơ sở dạy nghề, cá nhân và sự nỗ lực vươn lên của chính bản thân NKT. Sự kiện Việt Nam phê chuẩn Công ước Quyền của người khuyết tật tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII ngày 23/10/2014 vừa qua đã mở ra một bước ngoặt có ý nghĩa lớn lao trong việc góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về NKT, tạo cơ sở pháp lý đảm bảo việc thực hiện chính sách đối với người khuyết tật; thúc đẩy khả năng và cơ hội cho người khuyết tật trong việc tìm kiếm việc làm tốt hơn trong tương lai cũng như đảm bảo cuộc sống cho họ. Đây được coi là một cam kết chính trị mạnh mẽ của Việt Nam trong bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển vì lợi ích dành cho NKT.

Xem tất cả 122 trang.

Ngày đăng: 21/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí