điều kiện khảo sát thực tế bên ngoài nên luận văn bước đầu chỉ tập trung nghiên cứu khái quát pháp luật lao động về bảo vệ quyền của người khuyết tật của một số nước trên thế giới có nền kinh tế phát triển, có hệ thống pháp luật về quyền của người khuyết tật tương đối hoàn thiện và đã đạt được nhiều thành tựu trong việc bảo đảm quyền của người khuyết tật như: Mỹ, Australia đồng thời nghiên cứu pháp luật của nước đang phát triển là Trung Quốc.
1.3.1. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Mỹ
Theo báo cáo về dân số của Cục thống kê Hoa Kỳ, nước Mỹ có khoảng 56,7 triệu người khuyết tật, chiếm 19% dân số tính đến năm 2010 với hơn một nửa trong số họ bị khuyết tật nặng. Con số này đã tăng lên 2,2 triệu người so với những năm trước [109]. Điều này cho thấy, vấn đề người khuyết tật đang là vấn đề được quan tâm tại Mỹ. Việc bảo vệ quyền của người khuyết tật trong quan hệ lao động cũng được Chính phủ Mỹ đặc biệt chú trọng.
Luật người khuyết tật Hoa Kỳ năm 1990 sửa đổi năm 2008 có quy định về vấn đề Việc làm cho người khuyết tật tại Mục 1, Tiểu chương 1, Chương 126. Theo đó, luật quy định các cơ chế đảm bảo quyền bình đẳng về cơ hội việc làm, tuyển dụng và nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật. Cụ thể:
Cấm người sử dụng lao động phân biệt đối xử với các cá nhân khuyết tật mà có khả năng thực hiện các chức năng thiết yếu của một công việc; Người sử dụng lao động phải đảm bảo có những tiện nghi hợp lý cho người khuyết tật mà những tiện nghi này là cần thiết để tìm việc làm, thực hiện công việc hoặc tiếp cận các trang thiết bị trong công việc và các lợi ích khác; Ví dụ, người sử dụng lao động có thể giảm độ cao của máy tính để bàn cho phù hợp với người khuyết tật ngồi xe lăn; Mọi tổ chức khi tuyển dụng không được kiểm tra y tế và không được điều tra xem liệu nhân viên có phải người khuyết tật không và về bản chất hoặc độ nghiêm trọng của khuyết tật đó, trừ phi việc kiểm tra hay điều tra đó là liên quan đến công việc và phù hợp với yêu cầu của nghề [74, Phần 12112. Khoản 4-A]; Không tổ chức công nào được
không cho các cá nhân khuyết tật dủ năng lực tham gia, hoặc từ chối cung cấp các dịch vụ, chương trình hoặc hoạt động cho các cá nhân đó, hoặc phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật với các cá nhân dưới các hình thức khác [74, Phần 12132]…
Đạo luật này còn quy định các trường hợp bị coi là phân biệt đối xử cụ thể như sau:
Nguyên tắc chung: Không đối tượng áp dụng nào được phép phân biệt đối xử với một cá nhân đủ năng lực chuyên môn vì lý do khuyết tật trong các thủ tục xin việc, tuyển dụng, thăng tiến, sa thải, bồi thường, huấn luyện hoặc các điều khoản, điều kiện và quyền tuyển dụng khác. “Phân biệt đối xử với một cá nhân đủ năng lực chuyên môn” bao gồm:
1) Giới hạn, cách ly hoặc phân loại người xin việc hoặc nhân viên theo cách mà ảnh hưởng xấu đến cơ hội hoặc vị trí của người đó vì lý do khuyết tật;
2) Tham gia vào một hợp đồng hoặc hình thức thỏa thuận khác khiến cho người xin việc đủ điều kiện hoặc nhân viên khuyết tật phải chịu phân biệt đối xử bị cấm;
Có thể bạn quan tâm!
- Các Quyền Cơ Bản Của Người Khuyết Tật Trong Pháp Luật Quốc Tế
- Sự Cần Thiết Phải Bảo Vệ Quyền Của Người Khuyết Tật Trong Pháp Luật Lao Động
- Các Biện Pháp Bảo Vệ Quyền Của Người Khuyết Tật
- Giai Đoạn Từ 1986 Đến Trước Ngày Ban Hành Bộ Luật Lao Động Năm 1994
- Bảo Vệ Quyền Của Người Khuyết Tật Trong Các Quy Định Của Pháp Luật Lao Động Việt Nam Hiện Hành
- Quy Định Về Chế Tài Đối Với Các Hành Vi Vi Phạm Quyền Của Người Khuyết Tật
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
3) Sử dụng tiêu chuẩn, tiêu chí hoặc các cách quản lý mà: phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật, duy trì sự phân biệt đối xử với những người phải chịu các hình thức kiểm soát hành chính thông thường;
4) Loại trừ hoặc bằng hình thức khác từ chối công việc hoặc trợ cấp ngang bằng cho một cá nhân đủ năng lực chuyên môn vì lý do cá nhân đó có quan hệ hay quen biết với một người khuyết tật;
5) Không có các điều chỉnh thích hợp cho các hạn chế về thể chất hoặc tâm thần của một nhân viên hoặc người xin việc bị khuyết tật, trừ phi tổ chức đó chứng minh được rằng việc điều chỉnh đó sẽ gây ra khó khăn quá mức đến hoạt động của mình hoặc từ chối cơ hội việc làm với một người xin việc hoặc nhân viên khuyết tật đủ điều kiện, nếu việc từ chối đó là dựa trên việc tổ chức đó phải thực hiện các điều chỉnh thích
hợp cho các khiếm khuyết về thể chất hoặc tâm thần của nhân viên hoặc người xin việc đó;
6) Sử dụng tiêu chuẩn tuyển dụng, bài kiểm tra việc làm hoặc các tiêu chuẩn chọn lựa khác nhằm lọc ra hoặc có xu hướng lọc ra một người khuyết tật hoặc một nhóm người khuyết tật trừ khi các tiêu chuẩn hoặc bài kiểm tra đó là liên quan đến công việc và thống nhất với đòi hỏi của ngành nghề [74].
Những quy định trên cho thấy pháp luật của Hoa Kỳ đã liệt kê rất chi tiết, cụ thể các hành vi được coi là hành vi phân biệt đối xử trong lĩnh vực việc làm đối với người khuyết tật. Sự cụ thể này sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật được dễ dàng, nhanh chóng xử lý những hành vi vi phạm. Pháp luật Việt Nam nên tiếp thu cách thức quy định cụ thể đem lại hiệu quả ngăn chặn những hành vi phân biệt, kì thị đối với người khuyết tật.
Ngoài ra pháp luật Hoa Kỳ có quy định việc thành lập “Ủy ban cơ hội việc làm bình đẳng” – Cơ quan thuộc chính quyền liên bang Hoa Kỳ có trách nhiệm áp dụng các luật lệ căn bản nhằm cấm kì thị và tình trạng sách nhiễu liên quan đến mọi khía cạnh của việc làm, trong đó có vấn đề việc làm cho người khuyết tật như: tuyển dụng, sa thải, thuyên chuyển, trả lương, nghỉ hưu… Ủy ban này là cơ quan theo dõi, giám sát, giải quyết các khiếu nại liên quan đến kì thị, phân biệt đối xử trong vấn đề việc làm. Theo đó đảm bảo cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật, ngăn cấm các hành vi kì thị, phân biệt đối xử với người khuyết tật.
1.3.2. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Australia
Tính đến năm 2003, Australia có khoảng 3,958 triệu người khuyết tật, chiếm 20% dân số [97, tr.6]. Người khuyết tật ở Australia, bao gồm khuyết tật tâm thần, thiểu năng trí tuệ, khuyết tật vận động, khiếm thính, khiếm thị do nhiều nguyên nhân. Đa số họ (87%) phải chịu thiệt thòi vì bị hạn chế trong các sinh hoạt như: di chuyển, liên lạc, hòa nhập cộng đồng [105, tr.6].
Australia là nước quan tâm đặc biệt đến quyền được tiếp cận các công trình
công cộng của người khuyết tật. Năm 1977, Australia đã ban hành Bộ tiêu chuẩn về thiết kế lối đi cho người khuyết tật AS 148 – 1977, gồm: AS 148.1: Yêu cầu chung về lối đi trong công trình; AS 148.2: Các yêu cầu nâng cao và bổ sung – Công trình và tiện nghi; AS 148.3: Các yêu cầu về thiết kế lối đi cho thanh thiếu niên khuyết tật vận động; AS 148.4: Tấm định hướng cho người khiếm thị. Năm 1986 Chính phủ Australia đã thông qua Đạo luật Các dịch vụ khuyết tật (DSA). Đạo luật này quy định các Chính phủ Liên bang, Tiểu bang và lãnh thổ chia sẻ trách nhiệm trong việc tài trợ ngân sách nhằm cung cấp các dịch vụ cho người khuyết tật [97, tr.13-15]. Năm 1992, thông qua Đạo luật quốc gia về chống phân biệt người khuyết tật (DDA). Mục đích của đạo luật DDA là nghiêm cấm sự kì thị người khuyết tật, khuyến khích cộng đồng chấp nhận những nguyên tắc đảm bảo cho người khuyết tật phải được hưởng đồng đều những quyền lợi cơ bản như mọi thành viên khác trong xã hội. Luật quy định thành lập Ủy ban về chống phân biệt đối xử để thúc đẩy việc thực thi luật trong cuộc sống. Luật quy định, tất cả các Tiểu bang và lãnh thổ đều có những đạo luật tương tự, ngăn cấm việc phân biệt đối xử với người khuyết tật trong đó có lĩnh vực lao động, việc làm.
1.3.3. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Trung Quốc
Trung Quốc là nước có đông dân số nhất thế giới và cũng có lượng người khuyết tật đông nhất. Hiến pháp của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã ghi nhận: Công dân nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có quyền được nhà nước và xã hội trợ giúp vật chất khi về già, bị ốm đau hoặc khuyết tật. Nhà nước phát triển bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội và các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe để đảm bảo cho mọi công dân được hưởng quyền này. Nhà nước và xã hội bảo đảm sinh kế cho thương binh… thu xếp việc làm, sinh kế và giáo dục cho những người khiếm thị và những công dân khuyết tật khác.
Trung Quốc đã ban hành Luật bảo hộ người khuyết tật của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, ngày 28/12/1990 có hiệu lực từ ngày 15/5/1991. Luật đưa ra khái niệm về người khuyết tật. Luật ghi nhận người khuyết tật có các quyền như mọi thành viên khác trong xã hội. Luật quy định trách nhiệm của Nhà nước, chính
quyền nhân dân các cấp, toàn xã hội, hiệp hội người khuyết tật Trung Quốc, gia đình và người thân trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền của người khuyết tật. Luật cũng quy định chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm quyền của người khuyết tật, phải chịu bồi thường; lợi dụng tật nguyền của người khác để xâm phạm quyền nhân thân hoặc quyền lợi hợp pháp khác của người khuyết tật thì bị truy tố theo luật hình sự. Tra tấn, làm nhục người khuyết tật bị truy cứu trách nhiệm hình sự, hoặc bị xử phạt theo quy định tại Điều lệ xử phạt về quản lý trị an; ngược đãi người khuyết tật bị truy cứu hình sự hoặc hành chính tùy mức độ vi phạm và hậu quả gây ra [31]. Luật này dành hẳn Chương IV, từ điều 27 đến điều 35 quy định về việc bảo vệ quyền của người khuyết tật trong lĩnh vực việc làm thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với quyền của đối tượng đặc biệt này trong quan hệ lao động. Trong đó, phải kể đến quy định về quyền ưu tiên tuyển dụng và quyền khiếu nại lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền của người khuyết tật khi quyền lợi bị vi phạm:
Không có doanh nghiệp tổ chức nào được từ chối tiếp nhận người tàn tật tốt nghiệp được nhà nước giao từ các tổ chức học tập nâng cao, các trường bách khoa hoặc các trường kĩ thuật chỉ vì lý do khuyết tật của họ; trong trường hợp từ chối, người khuyết tật tốt nghiệp có thể khiếu nại lên cơ quan có liên quan để bổ trí và cơ quan có liên quan chỉ đạo các doanh nghiệp, tổ chức có liên quan tiếp nhận người tốt nghiệp [31, Điều 34].
Bên cạnh đó, luật này còn có quy định chính quyền địa phương và các ngành hữu quan phải có trách nhiệm xác định các loại sản phẩm thích hợp cho người khuyết tật sản xuất, kinh doanh dịch vụ, thực hiện chính sách giảm, miễn thuế đối với doanh nghiệp sử dụng lao động khuyết tật và người khuyết tật kinh doanh cá thể, hỗ trợ cho họ về vốn, kỹ thuật, vật tư, địa điểm và thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài ra, Luật lao động của Trung Quốc có quy định:
Trong các quy định về quyền và lợi ích hợp pháp cũng như các nghĩa vụ cơ bản của người lao động và người sử dụng lao động, nhấn mạnh việc bảo vệ người lao động không bị phân biệt đối xử trên cơ sở dân tộc, sắc tộc, màu da, giới tính, niềm tin tôn giáo, giữa lao động thành thị và lao động nông thôn, giữa người khuyết tật và người bình thường [108].
Để đảm bảo vấn đề an toàn lao động cho người lao động, trong đó có người khuyết tật, Luật An toàn lao động năm 2002 của Trung Quốc quy định:
Người sử dụng lao động có các trách nhiệm về an toàn lao động trong doanh nghiệp của mình như sau:
+ Xây dựng các quy định về an toàn lao động;
+ Bảo đảm thực hiện hiệu quả các quy định về an toàn lao động;
+ Kiểm tra và thanh tra về an toàn lao động trong doanh nghiệp;
+ Báo cáo cơ quan quản lý về tình hình tai nạn lao động [32, Điều 17].
Điều này thể hiện quan điểm bảo vệ quyền của người khuyết tật trong quan hệ lao động được đề cao và phải tuân thủ nghiêm ngặt.
Qua nghiên cứu pháp luật lao động của các nước, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, pháp luật lao động về bảo vệ quyền của người khuyết tật của các nước được hình thành sớm ngay từ trước thập kỷ quốc tế về người khuyết tật thế giới 1992, được chú trọng sửa đổi bổ sung nhằm hoàn thiện để bảo vệ ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của người khuyết tật trong quan hệ lao động.
Thứ hai, pháp luật lao động về quyền của người khuyết tật các nước này được thể hiện dưới hình thức văn bản có giá trị pháp lý cao đó là Bộ luật; quy định cụ thể, chặt chẽ và đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật; nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử với người khuyết tật, đặc biệt trong lĩnh vực lao động. Điển hình là các quy định về bảo vệ quyền bình đẳng về cơ hội việc làm, ưu tiên tuyển dụng, quyền được làm việc trong các thiết chế quyền lực công…(như Mỹ, Trung Quốc).
Thứ ba, bên cạnh việc quy định về chế độ trợ cấp, hỗ trợ người khuyết tật theo kiểu bao cấp, đang có xu hướng chuyển dần sang chế độ hỗ trợ, khuyến khích người khuyết tật tự vươn lên để tránh gánh nặng về trợ cấp xã hội của Nhà nước.
Thứ tư, luật về người khuyết tật các nước đều chú trọng quy định cơ chế bảo đảm quyền của người khuyết tật, đề cao trách nhiệm của Nhà nước, các tổ chức xã hội, cá nhân, gia đình và bản thân người khuyết tật trong quá trình thực thi các
quyền cơ bản của người khuyết tật. Đặc biệt, đa số luật các nước đều quy định cụ thể về chế tài thực hiện đảm bảo tính nghiêm minh và tính khả thi của pháp luật. Chẳng hạn: Quy định việc thành lập một Ủy ban về bảo vệ quyền của người khuyết tật (Mỹ, Australia), quyền khiếu nại lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi quyền lợi của người khuyết tật bị vi phạm (như Mỹ, Trung Quốc).
Từ những nhận xét trên cho thấy, pháp luật lao động Việt Nam trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những thành tựu của pháp luật quốc tế cũng như kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, đã xây dựng và ban hành Bộ luật lao động 2012 trong đó Mục 4 Chương XI dành để quy định về lao động là người khuyết tật và cụ thể hóa hơn trong Chương V, Luật người khuyết tật 2010 quy định về Dạy nghề và Việc làm cho người khuyết tật, bước đầu tạo cơ sở pháp lý cho việc thực thi và bảo vệ quyền của nhóm người yếu thế trong quan hệ lao động. Tuy nhiên, thực tế lại phát sinh những vấn đề mà không phải pháp luật nào cũng dự liệu được hết, do vậy trong quá trình bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật lao động trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật cần phải tiếp thu những quan điểm đúng đắn trong pháp luật của các nước trên thế giới. Tiêu biểu nhất là hoàn thiện các quy định về tăng cường cơ chế bảo vệ quyền cho người lao động khuyết tật, phát huy vai trò của cộng đồng, xã hội, của người khuyết tật cũng như chế tài xử phạt các vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động khuyết tật.
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
2.1. Quá trình phát triển của chế định bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam
Kinh tế xã hội luôn là mối quan tâm hàng đầu trong hệ thống chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, không chỉ trong công cuộc đổi mới mà được thể hiện thường xuyên từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trải qua muôn vàn khó khăn, thách thức của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng phát triển đất nước từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu; mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội luôn gắn bó, tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau trong mọi mặt đời sống xã hội. Ở đó con người luôn là trung tâm, là mục đích, là đối tượng của mọi cơ chế, chính sách. Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh chống giặc đói, giặc dốt cũng như chống giặc ngoại xâm còn vang vọng mãi đến ngày hôm nay và cả mai sau. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cùng với xóa đói giảm nghèo”…, bảo vệ chăm sóc trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, người khuyết tật là sự tiếp nối, là thực hiện lời kêu gọi thiêng liêng và ước vọng cao đẹp của Bác Hồ kính yêu.
Quan tâm và bảo vệ quyền lợi của người khuyết tật là những vấn đề được Đảng, Nhà nước và cộng đồng xã hội quan tâm để góp phần tạo sự ổn định xã hội, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy tiềm năng sáng tạo của mỗi cá nhân người khuyết tật, mở rộng cơ hội cho họ có điều kiện phát triển. Chính vì thế trong nhiều năm qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến việc bảo vệ cho những người không may mắn, bất hạnh trong cuộc sống như người khuyết tật, thương binh, bệnh binh…
Thực tiễn cho thấy, sự hình thành và phát triển chế định pháp luật về bảo vệ quyền của người khuyết tật ở Việt Nam luôn hướng tới việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về các chính sách xã hội trong đó có bảo vệ quyền của người khuyết tật theo từng thời điểm lịch sử. Chế định bảo vệ quyền của người