lao động, chủ yếu đào tạo ngắn hạn, các nghề/công việc ở trình độ bậc thấp. Do kinh phí hạn hẹp nên các trung tâm vẫn chỉ dạy NKT những nghề đã cũ hoặc là không thể cạnh tranh được với những sản phẩm cùng loại trên thị trường như đồ thủ công mỹ nghệ, tranh tăm, trồng cây thuốc nam...
- Nguyên nhân từ các chủ thể trong quan hệ dạy nghề đồi với NKT:
+ Về phía người khuyết tật: Trình độ, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của người tuyển dụng. Nhiều người khuyết tật còn mặc cảm tự ti, ỷ lại và chưa thực sự quyết tâm cũng như chưa có định hướng đúng đắn đối với việc học nghề và xây dựng nghề nghiệp và phát triển kỹ năng bản thân. Ngoài ra, khó khăn nằm trong chính nội lực của người khuyết tật khi nhiều người khuyết tật còn chưa thực sự cố gắng để vượt qua khiếm khuyết, hoà nhập cộng đồng và khẳng định bản thân.
+ Về phía nhà tuyển dụng: Chưa thực sự quan tâm tới việc tuyển dụng người lao động là người khuyết tật, vẫn coi vấn đề khuyết tật là vấn đề từ thiện, dẫn đến không đánh giá đúng khả năng lao động của người khuyết tật cũng như tạo ra môi trường làm việc tiếp cận để người khuyết tật có thể đến làm việc. Các chính sách hỗ trợ việc dạy nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật rất khó để tiếp cận nên cộng đồng và doanh nghiệp chưa có sự quan tâm quyết liệt đến vấn đề này.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Những quy định của pháp luật trong lĩnh vực dạy nghề đã góp phần tạo ra sự bình đẳng giữa những những NKT và những người khác trong quan hệ lao động, từng bước tạo nên môi trường lao động hài hòa, không khoảng cách. Với những những chính sách hiện hành, pháp luật về dạy nghề đối với NKT đã từng bước góp phần thay đổi nhận thức của xã hội đối với cách nhìn nhận khả năng của NKT trong lĩnh vực dạy nghề, góp phần không nhỏ trong việc khuyến khích, động viên, chia sẻ khó khăn với các doanh nghiệp trong quá trình tiếp nhận NKT vào làm việc. Điều này tạo nên sự chuyển biến tích cực về nhận thức vai trò, khả năng hòa nhập cộng đồng của NKT. Tuy nhiên, dù trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng quan tâm tới công tác dạy nghề và tạo việc làm cho NKT song thực tế áp dụng còn nhiều tồn tại, số lượng người được học nghề tăng qua từng năm nhưng không đáng kể nên mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ. Tỷ lệ tìm được việc làm sau đào tạo nghề của NKT có sự chuyển biến qua các năm nhưng nhìn nhận một cách khách quan, con số này thực sự chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Bên cạnh đó, phần đa là tự tạo việc làm, số có thể tìm được việc làm trong các doanh nghiệp lớn có nhưng chỉ hầu như không đáng kể. Mặc khác, phần lớn những NKT có việc làm không ổn định, làm các công việc tạm thời, lao động chân tay, làm việc trong các tổ chức cơ sở mang tính nhân đạo, từ thiện. Rất ít người tìm được việc làm ổn định trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hoặc các công việc đòi hỏi kỹ năng, trình độ chuyên môn. Do đó, thu nhập của NKT cũng tương đối thấp, không ổn định. Nhìn chung những quy định của pháp luật hiện hành về chế độ dạy nghề đối với NKT tương đối hoàn chỉnh, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số bất cập dẫn đến hiệu quả của công tác dạy nghề chưa cao. Vì vậy trong thời gian tới cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về NKT nói chung và chế độ dạy nghề đố với NKT nói riêng.
Chương 3
GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DẠY NGHỀ ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Áp Dụng Pháp Luật Về Dạy Nghề Đối Với Người Khuyết Tật Ở Việt Nam Hiện Nay
- Những Thành Tựu Và Hạn Chế Trong Áp Dụng Pháp Luật Về Dạy Nghề Đối Với Người Khuyết Tật Ở Việt Nam Hiện Nay
- Về Trình Độ Học Vấn Và Trình Độ Chuyên Môn Kỹ Thuật Của Người Khuyết Tật Việt Nam Năm 2008
- Kiến Nghị Hoàn Thiện Quá Trình Thực Hiện Pháp Luật Về Dạy Nghề Đối Với Người Khuyết Tật
- Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam - 14
- Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam - 15
Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.
3.1. Những quan điểm, định hướng chung
Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, NKT là đối tượng luôn được Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm. Ngay từ đại hội Đảng lần thứ VI chỉ rõ:
Từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội đối với toàn dân, theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, mở rộng và phát triển sự nghiệp bảo trợ xã hội, tạo lập nhiều hệ thống và hình thức bảo trợ xã hội cho những người có công với cách mạng và những người gặp khó khăn. Nghiên cứu bổ sung chính sách, chế độ bảo trợ xã hội phù hợp với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội [18].
Quan điểm của Đảng nêu trên đã thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng đến các đối tượng bảo trợ xã hội, trong đó có NKT. Trên tinh thần quán triệt và thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, pháp luật về dạy nghề đối với NKT đã xác định rõ nội dung, chức năng quản lý về NKT đảm bảo cho NKT sống hòa nhập với xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tất cả mọi người đều được phát triển toàn diện.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6/1991) cũng chỉ rõ: “không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội. Chăm lo đời sống những người già cả, neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi” [19]. Có thể thấy Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước đã từng bước luật pháp hóa các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và các chính sách liên quan đến người khuyết tật,
đồng thời tạo môi trường pháp lý, điều kiện và cơ hội bình đẳng, không rào cản đối với người khuyết tật.
Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980 và 1992 và mới đây nhất là Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đều khẳng định NKT là công dân, thành viên của xã hội, có quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân, được chung hưởng thành quả xã hội. Vì khuyết tật, NKT có quyền được xã hội trợ giúp để thực hiện quyền bình đẳng và tham gia tích cực vào đời sống xã hội, đồng thời vì khuyết tật họ được miễn trừ một số nghĩa vụ công dân. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội khóa X quy định: “Người già, người tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ”; “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật được học văn hóa và học nghề phù hợp” [33]. Đồng thời khẳng định mọi thành viên, bao gồm cả NKT đều được nhà nước bảo đảm quyền công dân như nhau và đều được hưởng các thành quả chung của sự phát triển xã hội.
Có thể thấy rằng ngay từ những văn bản pháp lý đầu tiên, Đảng và Nhà nước ta đã hướng tới việc xây dựng những chủ trương, chính sách về NKT nói chung và dạy nghề cho NKT nói riêng hướng đến một tinh thần nhất quán là tạo điều kiện tối đa cho NKT để họ có thể hòa nhập cộng đồng, đóng góp sức mình cho xã hội, tạo điều kiện tối đa về cơ hội việc học nghề, tạo việc làm không rào cản đối với NKT.
3.2. Những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật
Thứ nhất, cần có văn bản dưới luật quy định chi tiết về dạy nghề đối
với NKT: Trên cơ sở rà soát toàn bộ hệ thống văn bản pháp quy về lao động khuyết tật, cần đánh giá việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng, sửa đổi và bổ sung các văn bản phù hợp với tình hình thực tế cũng như tâm tư nguyện vọng của lao động khuyết tật để các văn bản này nhanh chóng đi vào cuộc sống và phát huy có hiệu quả hơn nữa trong công tác dạy nghề và tạo việc làm cho NKT. Để Luật Người khuyết tật năm 2010 đi vào cuộc sống một cách thiết thực thì việc cần làm đầu tiên là nhanh chóng đưa các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật này thực thi. Các cơ quan chức năng cũng phải nhanh chóng nghiên cứu, xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, đề án, kế hoạch về NKT.
Luật dạy nghề số 76/2006/QH11 đã dành hẳn một chương về dạy nghề cho người khuyết tật (Chương VII). Ngày 8/4/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/2008/NĐ-CP với phạm vi áp dụng là quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Điều 62 và Điều 72 Luật Dạy nghề về chính sách đối với giáo viên dạy nghề và đối với giáo viên dạy nghề cho người tàn tật, khuyết tật. Đối tượng áp dụng của nghị định này là giáo viên giảng dạy trong các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề, doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, trường cao đẳng, trường đại học, trường trung cấp chuyên nghiệp và cơ sở giáo dục khác có đăng ký hoạt động dạy nghề; giáo viên dạy nghề cho người tàn tật, người khuyết tật trong các cơ sở dạy nghề, tại các lớp dạy nghề dành riêng cho người khuyết tật, người tàn tật. Trong thời gian tới chúng ta cần ban hành thêm Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật dạy nghề về vấn đề dạy nghề cho NKT. Trong văn bản này cần có những điều khoản quy định chi tiết các vấn đề cụ thể như việc xây dựng giáo trình đào tạo nghề cho NKT; trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc xác định nội dung, chương trình, nghề đào tạo, hình thức đào tạo đối với NKT, trách nhiệm của Nhà nước trong việc
cải thiện chất lượng giáo dục và đào tạo cho NKT thông qua đầu tư thỏa đáng cho việc đổi mới cơ sở hạ tầng bao gồm cả nhà xưởng, trang thiết bị và giáo trình giảng dạy, nâng cao trình độ giáo viên trong hệ thống dạy nghề cho NKT; cải tiến và hoàn thiện giáo trình, giáo án thiết bị dạy nghề và đội ngũ cán bộ làm công tác dạy nghề cho NKT; cơ chế để doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo, để tạo cầu nối giữa đầu ra của các trường dạy nghề và đầu vào của doanh nghiệp; Quy định về cải tạo các trung tâm dạy nghề để NKT có thể tiếp cận dịch vụ dạy nghề tốt hơn. Ngoài ra, các nguyên tắc, biện pháp hướng nghiệp về dạy nghề, tiêu chuẩn, quyền lợi và nghĩa vụ của các trường dạy nghề cho NKT, chính sách ưu đãi đối với người làm công tác dạy nghề cho NKT; quyền lợi và nghĩa vụ của NKT học nghề trong các trường dạy nghề cũng cần được quy định cụ thể.
Thứ hai, xây dựng Khung giám sát và hướng dẫn truyền thông thực hiện Luật và Đề án trợ giúp người khuyết tật, phát triển hệ thống thông tin phản hồi của NKT: Năm 2007, Việt Nam đã ký Công ước Liên Hiệp quốc về quyền của người khuyết tật. Năm 2010, Chính phủ ban hành Luật Người khuyết tật; xây dựng các Nghị định, Thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Người khuyết tật, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách về người khuyết tật. Đến năm 2012, Chính phủ phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012- 2020. Đây là một tín hiệu đáng khích lệ và có ý nghĩa trong việc từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách về pháp luật dạy nghề cho NKT. Để làm tốt công tác đánh giá việc triển khai Luật Người khuyết tật và Đề án trợ giúp người khuyết tật, cần thiết ban hành một Khung giám sát và hướng dẫn truyền thông thực hiện Luật Người khuyết tật và Đề án trợ giúp NKT. Theo đó, hệ thống chỉ tiêu giám sát sẽ theo dõi, đánh giá việc cụ thể hóa và triển khai thực hiện Luật Người khuyết tật và Đề án trợ giúp người khuyết tật thành các chính sách và giải
pháp ở các bộ, ngành, địa phương và bao quát trên mọi lĩnh vực: y tế, giáo dục, giao thông, tư pháp, lao động, việc làm. Hệ thống chỉ tiêu giám sát cần đơn giản, dễ hiểu; phù hợp với từng cấp xã, huyện, tỉnh, Trung ương, tiện cho tổng hợp từng cấp; phản ánh rõ trách nhiệm, kết quả đạt được của các cấp, các ngành tham gia triển khai thực hiện Luật Người khuyết tật và Đề án trợ giúp người khuyết tật; không mâu thuẫn và kế thừa tối đa những chỉ tiêu của hệ thống giám sát các đề án và chương trình hiện hành về hỗ trợ NKT.
Thứ ba, có những quy định riêng về ngành nghề cho NKT. Các quy định về tổ chức dạy nghề cho NKT như: Giáo án phù hợp, chính sách thỏa đáng cho giáo viên dạy văn hóa, dạy nghề, phiên dịch cho người khiếm thính cần chặt chẽ hơn. Hiện nay, NKT đã có mặt và tham gia vào mọi lĩnh vực của cuộc sống nên thời gian học nghề đối với NKT cần phải linh hoạt, tăng thêm thời gian so với người không khuyết tật. Nên lồng ghép vấn đề dạy nghề cho NKT vào các chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
Đối với vấn đề kinh phí dạy nghề cho NKT, cần thiết có sự tách bạch rõ ràng để tạo ra sự chủ động, hiệu quả, không để chung với kinh phí hỗ trợ cho nông dân như hiện nay. Ngoài ra, tạo thuận lợi và ưu tiên tiêu thụ, tìm đầu ra cho sản phẩm đảm bảo chất lượng do NKT sản xuất, ưu tiên dành đường, chỗ đỗ xe cho NKT cũng là vấn đề cần được các cấp chính quyền lưu tâm và triển khai linh hoạt, hiệu quả ở địa phương. Ngoài ra, cần có chính sách khuyến khích dạy nghề cho NKT tại cộng đồng, vì phần lớn NKT sống ở gia đình, gắn với cộng đồng dân cư nên hướng dạy nghề, tạo việc làm cho NKT ở cộng đồng thuận tiện và phù hợp nhất. Với NKT ở khu vực nông thôn, nên quan tâm và nâng thành tầm chiến lược cấp quốc gia thực hiện "Chương trình tạo việc làm tại chỗ", tạo điều kiện cho NKT và gia đình của họ tự tạo việc làm.
Thứ tư, triển khai thực hiện một số giải pháp cụ thể để người khuyết tật
tự lập bằng chính nghề nghiệp bản thân, không phải là gánh nặng của gia đình theo như những định kiến của xã hội. Một trong những nguyên nhân tác động đến công tác dạy nghề cho NKT xuất phát từ tâm lý mặc cảm và tự ti nên không yên tâm khi xa gia đình để đi học nghề. Trong khi đó, nhiều gia đình NKT là hộ nghèo, ở nông thôn, dân trí thấp không khuyến khích NKT đi học nghề mà muốn giữ ở nhà để trông nhà, làm việc nội trợ... Sự khác nhau về bệnh tật, sự thiếu thốn, nghèo nàn về cơ sở vật chất phục vụ công tác dạy nghề cho NKT cũng gây ra nhiều trở ngại. Có những nghề phù hợp với hoàn cảnh, khả năng của NKT nhưng không có kinh phí để mua sắm trang thiết bị dạy nghề, trong khi việc dạy nghề cho NKT chỉ dạy lý thuyết là không đủ. Công việc dạy nghề cho NKT không đơn giản, đòi hỏi nhiều tâm huyết, lòng bao dung, sự công bằng, nhiệt huyết của giáo viên. Tuy nhiên đội ngũ giáo viên dạy nghề cho NKT hầu hết chưa qua trường lớp đào tạo chính quy do Nhà nước mở; họ mới được dự các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, do vậy yếu cả chuyên môn lẫn nghiệp vụ. Nhiều công ty, xí nghiệp ngại nhận NKT vào làm vì sợ ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Nhiều em sau khi được học nghề, thậm chí đã qua đào tạo tại các trường cao đẳng, đại học nộp đơn xin việc nhưng bị không ít doanh nghiệp từ chối tiếp nhận, với nhiều lý do khác nhau. Doanh nghiệp không mặn mà tiếp nhận NKT vào làm việc, khiến các trung tâm dạy nghề nhân đạo luôn lo lắng về đầu ra cho các học viên. Cần triển khai thực hiện một số biện pháp để khắc phục tình trạng trên:
- Khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào công tác tuyển dụng và hỗ trợ tạo việc làm cho NKT. Tập trung chỉ đạo các địa phương thành lập Quỹ việc làm cho người khuyết tật. Cần phát huy hơn nữa hiệu quả quỹ này và cần thực hiện nghiêm túc chế độ thưởng phạt doanh nghiệp trong việc thực hiện các quy định của Nhà nước về việc tuyển dụng lao động là người khuyết tật.