cạnh tranh và chấp nhận rủ ro. Gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của cán bộ giảng dạy, quản lý với kết quả học động của trường đại học.
Nhà nước tạo ra một môi trường pháp luật phù hợp đòi hỏi phải xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu. Mọi công dân có quyền tự do đầu tư thành lập các cơ sở đào tạo đại học và đào tạo những lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn mà pháp luật không cấm; có quyền bất khả xâm phạm về quyền sở hữu tài sản hợp pháp; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội và các nguồn lực phát triển cũng nhưng trong cung cấp và tiếp cận thông tin.
Chính sách phát triển GDĐH phải tối đa hóa được tất cả các lợi ích. Nó vừa thừa nhận một cách tự nhiên và tôn trọng các lợi ích cá nhân với những mục tiêu kinh tế độc lập và địa vị pháp lý bình đẳng. Giữ gìn nguyên tắc công bằng xã hội; đảm bảo tính đa dạng của hệ thống; đảm bảo chất lượng đào tạo.
- Nguyên tắc công khai minh bạch
Vốn đầu tư cho giáo dục đại học của các nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng được hình thành từ hai nguồn cơ bản là vốn trong nước và vốn nước ngoài. Trong đó vốn trong nước bao gồm vốn tích lũy từ ngân sách nhà nước (vốn ngân sách nhà nước), vốn tự tạo của trường, vốn của dân cư. Vốn ngoài nước được hình thành chủ yếu từ viện trợ phát triển chính thức.
Luật giáo dục Việt Nam đã ghi rõ vốn đầu tư cho giáo dục ở Việt Nam được hình thành từ các nguồn sau:
+ Nguồn ngân sách nhà nước,
+ Học phí, tiền đóng góp xây dựng trường học, các khoản thu từ hoạt động tư vấn, chuyển giao công nghệ, sản xuất kinh doanh của các cơ sở giáo dục, các khoản tài trợ khác của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Trên thực tê, vốn ngân sách được hình thành dựa trên sự đóng góp của nhân dân thông qua thuế, nhà nhàng năm nhà nước ta phải bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng đầu tư ngân sách cho giáo dục đại học[45]. Vì vậy yêu cầu tiên quyết để thực hiện mục tiêu giáo dục, đầu tư tài chính cho giáo dục đại học cần phải được công khai, minh bạch.
Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa rất rõ trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ta hiện nay.
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam - 2
- Đầu Tư Trong Giáo Dục Đại Học Việt Nam: Khái Niệm Và Các Yêu Cầu Đặt Ra
- Những Vấn Đề Lý Luận Về Pháp Luật Đầu Tư Trong Giáo Dục Đại Học Ở Việt Nam
- Các Yếu Tố Chi Phối Pháp Luật Đầu Tư Trong Giáo Dục Đại Học
- Các Quy Định Về Điều Kiện Đối Với Hoạt Động Đầu Tư Trong Giáo Dục
- Cơ Sở Giáo Dục Có Vốn Đầu Tư Nước Ngoài Được Tổ Chức Giảng Dạy:
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Luật Ngân sách Nhà nước hiện hành đã quy định Ngân sách Nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm.
Điều 66, Luật Giáo dục đại học 2012 quy định về quản lý tài chính của cơ sở giáo dục đại học “Cơ sở giáo dục đại học thực hiện chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán, thuế và công khai tài chính theo quy định của pháp luật”[16].
Điều 102, Luật Giáo dục năm 2005 quy định về ngân sách chi cho giáo dục “Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục phải được phân bổ theo nguyên tắc công khai, tập trung dân chủ; căn cứ vào quy mô giáo dục, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng; thể hiện được chính sách ưu tiên của Nhà nước đối với giáo dục phổ cập, phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn” [15].
- Nguyên tắc phòng ngửa rủi ro
Đầu tư cho giáo dục khác với các đầu tư khác, đầu tư cho giáo dục mang lại lợi ích cho cá nhân và xã hội. Lợi ích của một khoản đầu tư cho giáo dục được đo bằng khoản thu nhập bổ sung trung bình cho những người tốt nghiệp ở bậc học cao hơn so với những người tốt nghiệp ở bậc học thấp hơn, trong khi khống chế các yếu tố xác định thu nhập khác. Chi phí đầu tư cho giáo dục bao gồm các chi phí trực tiếp – đối với cá nhân, bao gồm tất cả các chi tiêu liên quan đến việc đi học và đối với xã hội, chi phí đầy đủ của các
nguồn lực cung cấp dịch vụ giáo dục bao gồm những khoản chi phí trợ cấp mà các cá nhân hoặc gia đình của các cá nhân đó không phải trả, cộng với chi phí trung bình phải từ bỏ do việc đầu tư này. Sinh viên còn phải chịu chi phí cơ hội vì mất cơ hội việc làm trong thời gian theo học. Mặt khác, đầu tư cho giáo dục là đầu tư mang tính dài hạn, trung bình một khóa học của sinh viên từ 3,5 đến 4 năm, nên nhà đầu tư cần phải tính toán kỹ về nguồn vốn đầu tư.
Khắc phục vấn đề đang diễn ra ở ĐH Hoa Sen hiện nay, việc điều chỉnh pháp luật phải tính toán được các yếu tố có thể xảy ra, phòng ngừa những rủi ro, làm ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo, ảnh hưởng đến quyền lợi của các nhà đầu tư, đến người học.
1.3.3. Nội dung điều chỉnh pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam
- Quy định về chủ thể đầu tư
Quan hệ đầu tư nói chung cũng như quan hệ đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đề có tính xác định về cơ cấu chủ thể. Pháp luật quy định những chủ thể được tham gia quan hệ pháp luật đầu tư trong lĩnh vực giáo dục xuất phát tính chất của hoạt động đầu tư, để bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức và của toàn xã hội. Các chủ thể đáp ứng được các điều kiện do pháp luật quy định để tham gia quan hệ đầu tư được coi là có năng lực pháp luật đầu tư. Hai nhóm chủ thể cơ bản của hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học gồm nhà đầu tư và cơ quản lý nhà nước về đầu tư.
- Quy định về điều kiện đối với hoạt động đầu tư trong giáo dục đại học
Một trong những đặc điểm đặc thù của hoạt động đầu tư trong GDĐH đó là “điều kiện đầu tư”. Nó thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm điều kiện đối với nhà đầu tư; hình thức đầu tư; thành lập tổ chức kinh tế; điều
kiện về vốn và cơ sở vật chất; điều kiện về chương trình giáo dục; mở cưa thị trường đối với hoạt động đầu tư nước ngoài và rất nhiều điều kiện khác nữa.
Pháp luật hiện hành quy định về điều kiện đầu tư trong giáo dục đại học theo hướng phân chia chủ thể đầu tư giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, pháp luật quy định về điều kiện đầu tư căn cứ vào thực tế hoạt động đầu tư và cam kết quốc tế trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
- Quy định về hình thức đầu tư
Hình thức đầu tư là một vấn đề quan trọng, là cách tiến hành hoạt động đầu tư sinh lợi của các nhà đầu tư theo quy định của pháp luật, không những thể hiện quyền lợi của nhà đầu tư mà còn nói lên thái độ của nhà nước đối với nhà đầu tư trong mỗi thời kỳ phát triển. Kết hợp tìm hiểu luật đầu tư và phạm vi đầu tư trong GDĐH để thấy được nhà nước đang tạo cơ hội cho nhà đầu tư được tiến hành các hoạt động đầu tư dưới những hình thức khác nhau.
Các quy định về hình thức đầu tư trong Luật đầu tư 2005 thể hiện một bước tiến rất lớn trong việc bảo đảm tính công bằng, bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư, cũng như bảo đảm tính toàn diện, thống nhất cho pháp luật đầu tư của Việt Nam, góp phần đưa pháp luật đầu tư của Việt Nam tiến gần hơn tới mức tiêu chuẩn của sự phù hợp xu hướng hội nhập. Theo quy định của pháp luật, hình thức đầu tư mà các nhà đầu tư được phép tiến hành bao gồm hình thức đầu tư trực tiếp và hình thức đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là hình thưc đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn và tham gia hoạt động quản lý (Khoản 2 Điều 3 Luật đầu tư), thể hiện qua các hình thức cụ thể: thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn nhà đầu tư nước ngoài; thành lập tổ chức kinh tế liên doanh; ký kết hợp đồng BOT, BTO, BT, BCC; đầu tư phát triển kinh doanh; mua cổ phần hoặc sát nhập doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp. Đầu tư gián tiếp là đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu,
các giấy tờ có giá, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các chế định tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư [14].
Trong điều kiện và môi trường GDĐH, hình thức đầu tư là cách thức mà pháp luật cho phép các nhà đầu tư sử dụng nguồn lực đầu tư, liên kết và thụ hưởng kết quả đầu tư.
- Quy định về thủ tục đầu tư
Theo quy định của Luật đầu tư 2005 thì thủ tục đầu tư được quy định khá đơn giản và thuận tiện cho các nhà đầu tư. Theo đó dự án đầu tư được phân chia thành hai loại: đăng ký đầu tư và thẩm tra đầu tư. Đầu tư trong GDĐH là lĩnh vực đầu tư có điều kiện nên các dự án đầu tư phải tiến hành thủ tục thẩm tra đầu tư theo quy định chung. Dự án thuộc diện thẩm tra áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nội dung thẩm tra bao gồm các nội dung: Sự phù hợp quy hoạch kết cấu hạ tầng, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng; Nhu cầu sử dụng đất: tiến độ thực hiện dự án; Giải pháp về môi trường. Đối với dự án thuộc danh mục đầu tư có điều kiện thì nội dung thẩm tra chính là thẩm tra các điều kiện mà dự án phải đáp ứng.
1.3.4. Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trong giáo dục đại học
Pháp luật đầu tư cho giáo dục nói chung và pháp luật đầu tư cho GDĐH chỉ thực sự được xây dựng sau khi Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII (họp từ ngày 22 đến ngày 29 tháng 12 năm 1997) chính thức đưa “xã hội hóa giáo dục” vào đời sống. Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/CP ngày 21 tháng 8 năm 1997 về phương hướng xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 8 năm 1999 về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa và Nghị định 73, Chính phủ đã quyết định ban hành Nghị quyết 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh và nâng cao
chất lượng xã hội hóa trong các lĩnh vực nói trên trong đó có giáo dục nhằm thống nhất hơn nữa về nhận thức và chủ trương, có cơ chế, chính sách cụ thể, có giải pháp bước đi thích hợp. Luật Giáo dục số 11/1998/QH10 (đã hết hiệu lực), đã ghi nhận “xã hội hóa giáo dục” tại Điều 12, coi giáo dục là sự nghiệp của nhà nước và toàn dân. Như vậy chủ trương xã hội hóa giáo dục đã đi dần vào đời sống, được pháp luật ghi nhận và đã trở thành một khái niệm quen thuộc. Theo cách hiểu chung nhất thì chính là khuyến khích sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển sự nghiệp giáo dục, mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng, nhân lực, vật lực, tài lực trong và ngoài nước, phát huy và sử dụng hiệu quả nguồn lực này để phát triển giáo dục. Thực hiện xã hội hóa nhằm hai mục tiêu lớn; thứ nhất là phát triển tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, hhhuy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục; thứ hai là tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách, người nghèo được thụ hưởng thành quả giáo dục ở mức độ ngày càng cao.
Xã hội hóa giáo dục có ý nghĩa là nhà nước nó phải tạo ra không gian xã hội, luật pháp và chính trị cho việc hình thành một khu vực giáo dục mà ở đó ai cũng có quyền đóng góp vì sự nghiệp giáo dục, thực hiện sự cạnh tranh về chất lượng giáo dục, tức là giáo dục phải thuộc về xã hội.
Tuy còn nhiều cách hiểu khác nhau về chủ trương này nhưng đây thực sự là nền tảng cho các quy định pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục phát triển và hoàn thiện.
Hiến pháp năm 1992 và Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc Hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định tại điều 36. “Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng.
Nhà nước phát triển cân đối hệ thống giáo dục: Giáo dục mầm mon, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học, phổ cập giáo dục tiểu học, xóa mù chữ; phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác.
Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác…”[9].
Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 39 khẳng định quyền và nghĩa vụ học tập của người dân và Điều 61 thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với việc phát triển giáo dục và đào tạo, coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; đã khái quát được hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm các cấp học, các loại hình nhà trường; phát triển giáo dục đồng đều giữa các vùng miền, ưu tiên những vùng ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; quan tâm đến đối tượng là người khuyết tập và người nghèo. Ngoài ra, xã hội hóa giáo dục cũng ưu tiên thực hiện nhằm huy động được những nguồn lực khác trong xã hội đầu tư cho giáo dục và đào tạo [10].
Trong pháp luật đầu tư, giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng được quy định là lĩnh vực được ưu đãi đầu tư từ rất sớm (Khoản 2, Điều 15 Luật khuyến khích đầu tư trong nước – sửa đổi năm 1998 – đã hết hiệu lực). Cùng thời điểm đó, Luật Giáo dục số 11/1998/QH10 quy định về xã hội hóa giáo dục và đầu tư cho giáo dục trên cơ sở phù hợp với chủ trương của Đảng và pháp luật về đầu tư.
Điều 12 Luật Giáo dục 1998 quy định Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển.
Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục.
Ngân sách nhà nước phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục”.
Có thể thấy, các văn bản pháp luật đầu tư và pháp luật về giáo dục đã bước đầu quy định về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng là hoạt động quan trọng và được khuyến khích, ưu đãi.
Luật đầu tư 2005 ra đời là kết quả của quá phát triển các quy định pháp luật về đầu tư. Luật đầu tư 2005 thay thế Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Theo Luật đầu tư 2005 thì “phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo” là lĩnh vực ưu đãi đầu tư (Khoản 6 – Điều 27), và là lĩnh vực đầu tư có điều kiện (Điểm h – Khoản 1 – Điều 29). Cùng năm 2005, Luật Giáo dục mới ra đời, quán triệt tinh thần phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu (Điều 9), Luật Giáo dục 2005 quy định về đầu tư cho giáo dục tại Điều 13 như sau:“ Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục; khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục. Ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục”[15].
Mục 2, Chương VII Luật Giáo dục 2005 cũng quy định về đầu tư cho giáo dục, từ Điều 101 đến Điều 106. Các quy định này thể hiện chính sách phát triển giáo dục là ưu tiên hàng đầu, huy động nguồn lực từ ngân sách nhà nước, từ sự đóng góp, đầu tư từ những tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cùng chung tay vì sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Mục 3, Chương VII Luật Giáo dục 2005 (từ Điều 107 đến Điều 110) quy định về hợp tác quốc tế về giáo dục, với tinh thần mở rộng, phát triển hợp tác quốc tế về giáo dục theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và các bên cùng có lợi. Theo quy định của mùa này thì tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được