Một Số Hạn Chế Còn Tồn Tại Trong Thực Tiễn Thi Hành Phá P Luật Bhxhts Ở Tỉnh Hà Giang Và Nguyên Nhân

chính sách BHXH, BHYT. BHXH thành phố từng bước thực hiện phân cấp quản lý cho BHXH các huyện nhằm tạo sự thuận lợi và giải quyết tốt nhất BHXH cho các đối tượng.

2.2.2.2. Một số hạn chế còn tồn tại trong thực tiễn thi hành phá p luật BHXHTS ở tỉnh Hà Giang và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm thai sản ở bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang thời gian qua vẫn còn tồn tại hạn chế trong thực tiễn thi hành pháp luật BHXHTS ở tỉnh Hà Giang.

Một là, về đối tượng tham gia bảo hiểm thai sản.

Đối tượng tham gia BHXH nói chung và BHXH thai sản nói riêng vẫn còn hạn hẹp. Nhiều đối tượng thuộc diện tham gia BHXH nhưng lại không tham gia BHXH. Bên cạnh đó, việc quản lý đối tượng hưởng các chế độ BHTS tại các huyện trên địa bàn tỉnh hiện nay vẫn còn gặp những khó khăn như tình trạng thông tin đối tượng tham gia không khớp với hồ sơ, chứng minh nhân dân và hộ khẩu.

Hai là, về chi trả bảo hiểm thai sản: Nhiều NSDLĐ cố tình khai báo sai thông tin về lao động tại đơn vị để thu hẹp số lượng lao động đóng BHXH bắt buộc. Từ đó xuất hiện tình trạng rất nhiều doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở của pháp luật cũng như sự thiếu hiểu biết về BHXH thai sản của người dân trên địa bàn đã thành lập các công ty ma, khai khống thông tin nhân viên có trong công ty, lừa lấy thông tin của các thai phụ với thủ đoạn: những thai phụ mới mang bầu tới tháng thứ hai, sẽ có người đến hỏi thăm và gợi ý chỉ cần làm theo hướng dẫn của họ, tới khi sinh sẽ được 2 triệu đồng. Khi em bé được 1 tuổi, sẽ được hỗ trợ thêm 1 triệu đồng nữa. Mọi chi phí BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp thì công ty sẽ lo. Với thủ đoạn này, rất nhiều người dân tộc trên địa bàn nhanh chóng nghe theo vì nghĩ bỗng nhiên trở thành người của công ty, chẳng phải đi làm ngày nào, khi sinh đẻ lại được tiền…

Ba là Về công tác thu BHXH: Công tác thu BHXH còn tồn tại một số hạn chế: Có nhiều lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc chưa được tham gia BHXH có chủ sử dụng lao động trốn nộp.

Đối tượng tham gia BHXH chủ yếu là lao động trong khu vực nhà nước, chiếm 87%. Số người tham gia BHXH ngoài khu vực nhà nước chỉ chiếm khoảng 13% tổng số người tham gia và chiếm khoảng 20% tổng lao động ngoài khu vực nhà nước.

Tình trạng nợ đọng dù giảm nhiều những vẫn là một tồn tại lớn, theo số liệu thống kê của BHXH tỉnh Hà Giang, hiện nay trên địa bàn có trên 1.400 đơn vị SDLĐ nợ đọng bảo hiểm 37 tỷ đồng.

Ví dụ như: Công ty Cổ phần Giao thông xây dựng số I - doanh nghiệp đã có những bứt phá ngoạn mục, vươn lên mạnh mẽ sau cổ phần hóa, tham gia thi công nhiều gói thầu lớn trong và ngoài tỉnh. Cùng với sự vươn lên, khẳng định vị thế trên thương trường, doanh nghiệp này cũng nổi tiếng về nợ đọng bảo hiểm với con số đội sổ, trên 3,372 tỷ đồng, cao nhất trong số những con nợ khó đòi của BHXH tỉnh. Trong đó, số tiền nợ BHXH gần 2,5 tỷ đồng, BHYT trên 264 triệu đồng, Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) trên 127 triệu đồng, tiền tính lãi trên 500 triệu đồng, đồng thời doanh nghiệp đã dừng tham gia các loại bảo hiểm cho người lao động từ tháng 1.2013. Nhằm xử lý món nợ khó đòi, cơ quan BHXH đã nhiều lần làm việc nhưng không mang lại kết quả, lãnh đạo doanh nghiệp viện nhiều lý do như hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, tỉnh còn nợ tiền xây dựng cơ bản chưa trả nên không có tiền đóng bảo hiểm. Một cán bộ nghiệp vụ BHXH tỉnh cho biết thêm, qua các đợt kiểm tra, trên bảng lương của người lao động đều thể hiện khoản tiền bảo hiểm các loại, nhưng doanh nghiệp không nộp về cơ quan BHXH tỉnh, đây thực sự là một biểu hiện lạm dụng tiền bảo hiểm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

Trong danh sách các doanh nghiệp nợ đọng bảo hiểm được liệt vào

dạng khó đòi, có sự góp mặt của Công ty Cổ phần Xi - măng Hà Giang với số tiền trên 921 triệu đồng, gồm tiền BHXH gần 724 triệu đồng và gần 135 triệu đồng tiền lãi; Công ty TNHH Đức Sơn nợ 17 tháng bảo hiểm của 13 lao động với số tiền trên 334 triệu đồng; Công ty TNHH Ngọc Quế Lâm nợ 58 tháng với số tiền gần 286 triệu đồng; Công ty Cổ phần Nông lâm nghiệp Bình Minh 3 nợ bảo hiểm 19 tháng của 9 lao động với số tiền trên 216 triệu đồng... Một số đơn vị hành chính sự nghiệp như UBND xã Bằng Lang (Quang Bình) cũng nợ trên 83 triệu đồng tiền bảo hiểm của 24 cán bộ, công chức.

Pháp luật về Bảo hiểm xã hội thai sản và thực tiễn thực hiện tại Tỉnh Hà Giang - 10

Theo Phó Giám đốc BHXH tỉnh Mai Quang Hùng, hiện còn nhiều đơn vị SDLĐ chưa thực hiện tốt việc đóng, nộp tiền bảo hiểm hàng tháng, còn lạm dụng số tiền phải đóng làm vốn kinh doanh [44; 45; 50]

Bốn là, về điều kiện cơ sở vật chất của một số cơ quan bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh, còn chưa được đầu tư, thiết bị như máy tính, máy in, máy photo… phục vụ cho công tác xử lý hồ sơ còn thiếu và có dấu hiệu xuống cấp. Kinh phí hoạt động của ngành thấp, thiếu cơ sở vật chất phục vụ, thiếu kinh phí đào tạo và chưa có cơ chế khuyến khích thảo đáng cho những đơn vị, các nhân thực hiện tốt công tác BHXH.

Năm là, Một số viên chức còn ngại khó, chưa thực sự có tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, đặc biệt với các công việc có yêu cầu đổi mới, xuất hiện tình trạng bảo thủ không tiếp thu công nghệ mới nên tiến độ công việc còn chậm; còn tình trạng lúng túng khi áp dụng pháp luật cũng như không thống trong việc áp dụng pháp luật; Trình độ của cán bộ, công nhân viên chức trong BHXH tỉnh Hà Giang vẫn còn bất cập. Đa số là các cán bộ thuộc ngành khác chuyển sang, chưa nắm vững được công tác BHXH, BHXH tỉnh còn thiếu cán bộ, một cán bộ phải đảm đương nhiều công việc dẫn đến hiệu quả công việc chưa cao. Cá biệt còn có viên chức lợi dụng danh nghĩa cán bộ BHXH để trục lợi, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, phải xử lý kỷ luật.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Có thể kể đến một số nguyên nhân cơ bản sau đây:

- Về phía các chủ thể tham gia BHXH

Nguyên nhân chủ yếu là dân cư trên địa bàn tỉnh Hà Giang hầu hết là người dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp nên còn thiếu hiểu biết về pháp luật BHXH cũng như về quyền lợi mà mình được hưởng theo quy định. NLĐ làm việc trong khu vực này chủ yếu là lao động phổ thông, phần lớn họ đều chưa qua đào tạo nghề, tay nghề thấp, thường xuyên thay đổi nơi làm việc nên tuyên truyện vận động họ tham gia BHXH gặp rất nhiều khó khăn. Điều này dẫn đến việc nhiều lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nhưng lại không tham gia hoặc thỏa thận với NSDLĐ để nhận tiền mặt thay vì đóng vào quỹ BHXH. Nhất là, nhiều NSDLĐ cố tình khai báo sai thông tin về lao động tại đơn vị để thu hẹp số lượng lao động đóng BHXH bắt buộc.

Thêm vào đó, hầu hết các giấy tờ tùy thân của người dân tộc thiểu số đã cũ nát, người dân không có ý thức giữ gìn giấy tờ tùy thân của mình hoặc do cán bộ xã làm giấy tờ còn sai lệch nhiều. Trong khi đó, số lượng đối tượng hưởng chế độ BHTS lại đông, thuộc nhiều trường hợp khác nhau dẫn đến không tránh khỏi sai sót, chậm trễ trong khâu giải quyết, chi trả chế độ.

- Về phía NSDLĐ

Do chưa nhận thức được hết vai trò ý nghĩa của BHXH cũng như chưa có sự hiểu biết một cách thấu đáo pháp luật về BHXH nên nhiều NSDLĐ đã chưa thực sự quan tâm đến quyền lợi BHXH của NLĐ, chưa ý thức được trách nhiệm đóng BHXH cho NLĐ. Nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa có tổ chức công đoàn hoặc có những hoạt động yếu kém vì thế chưa bảo vệ được quyền lợi về BHXH cho NLĐ. Hơn nữa là NSDLĐ thường đặt mục tiêu kinh tế, lợi nhuận lên hàng đầu nên đã trốn

tránh trách nhiệm đóng BHXH theo đúng luật quy định, không quan tâm đến quyền lợi của người lao động.

- Về phía cơ quan nhà nước

Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang tuy đã đạt được những kết quả nhất định trong công tác quản lý quỹ BHXH (như đã phân tích ở trên).Tuy nhiên, ở góc độ nào đó thì việc quản lý này chưa thực sự hiệu quả. Tình trạng nợ đọng BHXH vẫn còn tồn tại. Đây là món nợ khó đòi, nguyên nhân là do một số doanh nghiệp không có khả năng đóng bảo hiểm do gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, làm ăn thua lỗ. Bên cạnh những đơn vị khó khăn thực sự, rất nhiều đơn vị cố tình thoái thác trách nhiệm, có biểu hiện chiếm dụng tiền bảo hiểm, cố tình chống đối, không đóng nộp tiền BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động với lý do Nhà nước còn nợ tiền các công trình nên chưa thực hiện nghĩa vụ với người lao động. Các đơn vị nợ đọng tiền bảo hiểm, đồng nghĩa với việc người lao động sẽ không được thanh toán chế độ khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động. Chính sự gây nợ đọng đó đã gây khó khăn và thiệt thòi cho người lao động khi giải quyết hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội.

Công tác quản lý chưa đồng bộ, cơ quan BHXH tỉnh Hà Giang cũng như các phòng ban, ngành chức năng chưa nắm chắc hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình sử dụng lao động của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ngoài công lập. Có những doanh nghiệp ngoài quốc doanh có đăng kí thành lập trên địa bàn huyện nhưng không có trụ sở giao dịch, không hoạt động theo nội dung đăng kí, giả thể sau khi thành lập và hoạt động một thời gian ngắn, không đăng ký sử dụng lao động...Cũng không cơ quan quản lý nào quản lý, theo dõi và nắm được thông tin về những doanh nghiệp đã đăng kí kinh doanh. Do vậy, việc quản lý, theo dõi, yêu cầu người sử dụng lao động thực hiện chính sách BHXH cho người lao động theo luật định ở các đơn vị này thực sự là vấn đề không dễ đảm bảo.

Thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật BHXH cho NLĐ và NSDLĐ còn chưa rộng rãi, chưa thường xuyên. Bên cạnh đó nội dung và hình thức tuyên truyền còn khô cứng chưa thu hút được sự quan tâm của đại đa số nhân dân.

- Về quy định của pháp luật

Về quy định của pháp luật gây khó khăn và thiệt thòi cho người lao động khi giải quyết hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội thai sản. Đa số các quy định về vấn đề đối tượng hưởng trợ cấp thai sản, điều kiện hưởng, thời gian nghỉ và mức trợ cấp hưởng được đánh giá là có sự tiến bộ vượt bậc so với pháp luật cũ, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho NLĐ nữ trong giai đoạn thai sản. Tuy nhiên, bên cạnh đó một số các quy định của pháp luật hiện hành về BHXHTS vẫn còn bất cập, thiếu tính khả thi dẫn đến việc áp dụng pháp luật còn có những khó khăn vướng mắc như hạn chế nhất định như quy định về thời hạn giải quyết quyền lợi BHXHTS cho NLĐ quá ngắn khiến thực tế NSDLĐ không thực hiện được nên có sự vi phạm; quy định lao động nam tham gia BHXH có vợ sinh con được hưởng chế độ nhưng trong thông tư số 14/2016/TT-BYT ngày 12/5/2016 quy định giấy chứng sinh không ghi tên cha nên khó xác định việc tham gia BHXH của người vợ trong trường hợp lao động nam hưởng trợ cấp một lần khi vợ sinh con. Hay các cá nhân lợi dụng kẻ hở của chính quyền địa phương trong việc chứng thực các văn bản giấy tờ để làm giả Giấy khai sinh hoặc Giấy chứng sinh bản sao và thực hiện lập hồ sơ giả mạo đề nghị cơ quan BHXH thanh toán tiền trợ cấp thai sản; mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi nợ đọng BHXH cũng không cao nên chưa đảm bảo tính răn đe khiến các doanh nghiệp vẫn vi phạm.

Kết luận Chương 2

Như vậy, với các nội dung trình bày trên đây, có thể thấy Luật BHXH 2014 đã có những bước tiến để kế thừa và hoàn thiện các quy định pháp luật về CĐTS. Đánh giá khi so sánh với pháp luật quốc tế cũng như quy định của ILO, hệ thống pháp luật về CĐTS tại Việt Nam có những ưu việt, cụ thể như:

Luật bổ sung quy định lao động nam đang đóng BHXH có vợ sinh con được nghỉ việc hưởng BHXH thai sản 5 ngày làm việc đối với trường hợp sinh thường và 7 ngày làm việc đối với trường hợp sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi; 10 ngày làm việc nếu sinh đôi và từ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 3 ngày làm việc; 14 ngày làm việc nếu sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật.

Sửa đổi điều kiện hưởng BHXH thai sản trong trường hợp lao động nữ có thời gian đóng BHXH từ đủ 12 tháng nhưng vì lý do thai không bình thường phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì chỉ cần bảo đảm điều kiện đóng BHXH từ đủ 3 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.

Đồng thời, sửa đổi thời gian lao động nữ nghỉ việc hưởng chế độ khi sinh con, nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi. Bổ sung trường hợp lao động nam nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi được hưởng BHXH giống như lao động nữ nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi.

Đối với trường hợp chỉ có mẹ tham gia BHXH hoặc cả cha và mẹ đều tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng BHXH thai sản đối với thời gian còn lại của người mẹ.

Nếu mẹ đóng BHXH bắt buộc nhưng chưa đủ thời gian đóng BHXH theo quy định mà chết thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng BHXH thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi.

Trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con hoặc gặp rủi ro sau khi sinh mà không có đủ sức khỏe để chăm sóc con có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo thẩm quyền thì người cha được nghỉ việc hưởng BHXH thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi.

Trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH khi vợ sinh con thì cha được trợ cấp một lần bằng 2 lần mức lương cơ sở tại tháng sinh con cho mỗi con; tăng thêm 1 tháng cho thời gian lao động nữ nghỉ thai sản trong trường hợp con dưới 2 tháng tuổi bị chết sau khi sinh.

Bổ sung quy định BHXH thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi).

Nhìn chung, công tác bảo hiểm thai sản tại địa bàn đã được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và đạt được nhiều kết quả tích cực. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc có xu hướng tăng qua các năm. Việc chi trả chế độ thực hiện một cách đầy đủ, đúng đối tượng, đúng thời gian. Công tác thu quỹ bảo hiểm, thu hồi nợ được triển khai một cách sát sao.

Tuy nhiên, việc thực hiện quy định pháp luật về bảo hiểm thai sản tại địa bàn vẫn gặp phải một số khó khăn nhất định. Các khó khăn này chủ yếu xoay quanh vấn đề như việc doanh nghiệp trốn đóng bảo hiểm, chậm đóng bảo hiểm; thủ tục hành chính còn chưa linh hoạt, thiếu chặt chẽ. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này một phần do quy định của pháp luật còn hạn chế, một phần do chính ý thức của người lao động, người sử dụng lao động trong việc nhận thức quyền và nghĩa vụ của mình.

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 29/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí