Tầm Quan Trọng Và Những Yêu Cầu Cơ Bản Trong Việc Giải Quyết Tranh Chấp Bảo Hiểm Xã Hội Về Thai Sản


Cũng cần phải phân biệt giữa tranh chấp về Bảo hiểm xã hội đối với vi phạm chính sách, pháp luật về Bảo hiểm xã hội. Nếu các tranh chấp Bảo hiểm xã hội là sự xung đột (chủ yếu xuất phát từ phía các chủ thể được hưởng quyền Bảo hiểm xã hội đối với một bên là các cơ quan thực thi chính sách, chế

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Chế độ bảo hiểm thai sản ở Việt Nam - 8

độ Bảo hiểm xã hội) thì sự vi phạm chính sách, pháp luật Bảo hiểm xã hội là những hành vi trái pháp của một bên hoặc các bên liên quan trong lĩnh vực Bảo hiểm xã hội đó hoặc bất kỳ tổ chức, cá nhân nào trong xã hội. Ví dụ: một người giả hồ sơ để hưởng chế độ thai sản, métmộtcán bộ bảo hiểm lập hồ sơ

để chiếm đoạt tiền tử tuất của quỹ Bảo hiểm xã hội… [58; tr357]. Những hành vi đó không bị coi là các tranh chấp về Bảo hiểm xã hội vì nó không có dạng xung đột quyền lợi. Đó là sự vi phạm nhằm mục đích tư lợi là chiếm

đoạt tài sản của Nhà nước, do đó sẽ có thể bị xử lý theo trách nhiệm pháp lý do Nhà nước đặt ra.

Nằm trong chế độ Bảo hiểm xã hội nên tranh chấp về chế độ thai sản cũng mang đầy đủ đặc điểm của tranh chấp Bảo hiểm xã hội. Cho nên có thể hiểu tranh chấp về Bảo hiểm thai sản là những xung đột về quyền, lợi ích

được biểu hiện ra bên ngoài giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đối với chế độ Bảo hiểm xã hội về thai sản

2.4.1 1. Tầm quan trọng và những yêu cầu cơ bản trong việc giải quyết tranh chấp Bảo hiểm xã hội về thai sản

Tranh chấp đối với chế độ Bảo hiểm xã hội về thai sản thường xuất phát từ lợi ích của các bên khi tham gia quan hệ pháp luật liên quan đến chế độ Bảo hiểm xã hội về thai sản. Chủ thể tranh chấp là người lao động, người sử dụng lao động, cơ quan Bảo hiểm xã hội. Tuỳ thuộc vào tính chất của từng loại tranh chấp mà pháp luật quy định tranh chấp liên quan đến chế độ Bảo hiểm xã hội về thai sản có phải là tranh chấp lao động hay không.

Giải quyết tranh chấp đối với chế độ Bảo hiểm xã hội về thai sản là việc cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành điều hoà, giải


quyết những bất đồng, xung đột về quyền, lợi ích giữa các bên nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho các bên khi tham gia chế độ Bảo hiểm xã hội về thai sản.

Giải quyết sự ổn thoả các xung đột, các bất đồng giữa các bên tranh chấp bao gồm người thụ hưởng và cơ quan giải quyết chế độ bảo hiểm thai sản. Mục tiêu cơ bản của mọi quá trình giải quyết là hướng tới các bên thoả mãn hoặc chấp nhận với kết quả giải quyết thì người có thẩm quyền sẽ dừng việc việc giải quyết tranh chấp đó. Mặt khác, nếu quá trình giải quyết đó thông qua các phương thức tài phán, quyết định có hiệu lực của các cơ quan tài phán có thẩm quyền sẽ có tác dụng giúp các bên nhận thức được mặt tiêu cực của các xung đột hoặc giác ngộ các bên về quyền lợi từ đó họ sẽ tuân thủ, thi hành các phán quyết của các cơ quan tài phán, dừng lại những xung đột vốn làm xấu đi tình trạng của họ. Quá trình giải quyết tranh chấp có thể ngăn ngừa, đề phòng các tranh chấp mới xảy ra. Chế độ Bảo hiểm xã hội về thai sản có nhiều đối tượng tham gia cho nên tranh chấp của các cá nhân này có thể làm nảy sinh các tranh chấp của cá nhân khác. Thực tế, có nhiều những xung đột thường chờ đợi kết quả khiếu nại, kiện tụng của những người khác rồi mới quyết định có đưa xung đột của mình ra giải quyết chính thức hay không. Cho nên, việc giải quyết dứt điểm tranh chấp hiện thời sẽ tạo điều kiện là cơ sở những người ngoài cuộc và cả trong cuộc cân nhắc tính đúng

đắn và triển vọng việc đưa ra các xung đột các tranh chấp và yêu cầu giải quyết tranh chấp đó.

Với tư cách là người quản lý xã hội, Nhà nước phải thường xuyên nhìn nhận xem xét, đánh giá các hiện tượng kinh tế xã hội để xây dựng các chính sách phát triển phát triển kinh tế xã hội. Do đó, khi giải quyết tranh chấp Bảo hiểm xã hội về chế độ thai sản sẽ giúp nhà nước nhận biết và điều chỉnh hệ thống chính sách xã hội cho phù hợp việc giải quyết tranh chấp Bảo hiểm xã hội về thai sản sẽ đảm bảo công bằng và thực thi chính sách Bảo hiểm, chính



Formatted: Expanded by 0,2 pt



sách xã hội đảm bảo quyền lợi cho người tham gia Bảo hiểm, khẳng định uy tín của Nhà nước trước xã hội, tăng cường lòng tin của các đối tượng hưởng chế độ thai sản và lòng tin của nhân dân về một xã hội công bằng văn minh.

Các yêu cầu đặt ra khi giải quyết tranh chấp Bảo hiểm xã hội về chế độ thai sản: Quá trình giải quyết phải bám sát đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về việc thực hiện Bảo hiểm xã hội về chế độ thai sản. Sử dụng tốt cơ chế mang tính xã hội vào việc giải quyết các tranh chấp về chế

độ thai sản là một trong những đối tượng của chính sách an sinh xã hội cho nên cần triệt để sử dụng cơ chế mang tính xã hội mềm dẻo, thuyết phục, gần gũi vào đời sống của các đối tượng thụ hưởng. Trong quá trình giải quyết vừa khắc phục hậu quả, vừa rút kinh nghiệm để hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội theo định hướng phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững.

2.4.2 2. Những nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp Bảo hiểm xã hội về thai sản

- Tính pháp chế : Luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tất cả các phương thức giải quyết của việc giải quyết tranh chấp từ thương lượng, hoà giải, tố tụng. Nó thể hiện sự đảm bảo đúng đắn, phù hợp về mặt nội dung trong công tác áp dụng pháp luật và thực hiện nghiêm chỉnh thủ tục giải quyết chế độ Bảo hiểm xã hội về thai sản trên cơ sở các quy định của pháp luật. Như vậy, từ khi xây dựng các quy định, xây dựng cơ chế pháp luật đến khi đưa ra các quy định giải quyết tranh chấp chế độ Bảo hiểm xã hội về thai sản vào thực tiễn giải quyết xung đột đều phải thấm nhuần tinh thần pháp chế.

- Đảm bảo quyền tự quyết định của các bên tranh chấp

Quan hệ bảo hiểm đối với chế độ Bảo hiểm xã hội về thai sản gồm hai bên chủ thể bên có trách nhiệm (bên nghĩa vụ) thực hiện hành vi đảm bảo chế độ thai sản là cơ quan, tổ chức cụ thể và một bên là người thụ hưởng. Quan hệ này được xem xét trên phương diện thực tiễn với tư cách là một quan


Formatted: Font: 14 pt

.

:


hệ xã hội như không phải được xem xét một cách chung chung là quan hệ giữa Nhà nước và người dân.

Trong chế độ Bảo hiểm xã hội về thai sản bên thụ hưởng hoặc bên người sử dụng lao động là đối tác của người lao động chính là chủ thể tham gia tạo nên một phần vật chất để giải quyết chế độ đó cho nên các bên tham gia quan hệ đó có quyền và nghĩa vụ đối xứng nhau về sự đảm bảo quyền lợi bảo hiểm xã hội. Khi xảy ra tranh chấp họ có quyền quyết định về các vấn đề liên quan trong phạm vi và nhiệm vụ của mình như:

Có quyền yêu cầu các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền can thiệp, giải quyết theo quy định pháp luật.

Có quyền yêu cầu trợ giúp pháp lí từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức công dân hoặc tự để phục vụ cho việc giải quyết tranh chấp.

Các bên có quyền quyết định về biện pháp giải quyết tranh chấp.

Có quyền tham gia giải quyết tranh chấp.

Có quyền quyết định về các vấn đề liên quan tới việc giải quyết chế

độ, chính sách của các bên.

- Đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời trong quá trình giải quyết.

Tại Điều 158 Khoản 3 Bộ luật lao động 1994 được sửa đổi bổ sung năm 2002 quy định việc giải quyết các tranh chấp lao động được tiến hành giải quyết công khai, kịp thời nhanh chóng đúng pháp luật.

Tranh chấp Bảo hiểm xã hội về thai sản gắn liền quyền lợi thiết thân, thậm chí có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của đối tượng được hưởng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tổ chức đời sống của người lao động trong thời gian thai sản sinh con, nuôi con bú… nếu không giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng tới cuộc sống của họ rất nhiều. Mặt khác, ngoài việc ảnh hưởng ở khía cạnh vật chất, nó còn tạo nên sự hoài nghi, thiếu lòng tin vào việc tổ chức thực hiện chế độ chính sách gây mất ổn định xã hội. [58; tr 369]

Tính chất nhanh chóng kịp thời trong giải quyết tranh chấp thể hiện ở việc



Không được kéo dài thời gian thụ lý xem xét, giải quyết

Không được đẩy trách nhiệm giải quyết vụ việc làm tốn thời gian của người yêu cầu.

Tận dụng thời gian để tìm hiểu xác minh các tình tiết của vụ việc.

Giải quyết đúng lúc, đúng thời điểm mà đương sự yêu cầu.

2.4.3 3. Cơ chế giải quyết tranh chấp Bảo hiểm xã hội về chế độ thai

sản

Cơ chế giải quyết tranh chấp Bảo hiểm xó hội về chế độ thai sản là tổng

hợp các hình thức và biện pháp được sử dụng để giải quyết các tranh chấp về chế độ thai sản.

- Cơ chế thoả thuận: Trong các phương thức giải quyết tranh chấp, thương lượng được nhìn nhận và sử dụng như là bước đầu tiên nó tạo nên cơ hội cho các bên sử dụng quyền năng tự định đoạt của mình. Tại Điều 151 khoản 2 điểm b Bộ luật lao động quy định về việc giải quyết tranh chấp Bảo hiểm xã hội: “Tranh chấp giữa người lao động đã nghỉ việc theo chế độ với người sử dụng lao động hoặc với cơ quan bảo hiểm xã hội, giữa người sử dụng lao động với cơ quan bảo hiểm xã hội do hai bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì do toà án nhân dân giải quyết.” Như vậy, cách thức thương lượng giữa 2 bên tranh chấp là phương thức giải quyết được quy định trước tiên. Chỉ khi nào không thể giải quyết được thì mới sử dụng đến các biện pháp khác.

- Cơ chế khiếu nại: Trước đây xuất phát từ đặc thù cơ quan Bảo hiểm xã hội là cơ quan quản lý hành chính cho nên các quy định về Bảo hiểm xã hội nói chung và Bảo hiểm thai sản nói riêng đã từng bị coi là sự bổ sung cho Luật hành chính. Do đó, cơ chế khiếu nại và giải quyết khiếu nại được sử dụng như là một biện pháp có tính phổ biến. Cơ quan Bảo hiểm và người sử dụng lao động có toàn quyền ra mệnh lệnh đồng thời là người giải quyết các vấn đề liên quan tới người lao động trong đó có cả các khiếu nại, tố cáo liên quan đến chế độ của họ.


Sự chuyển biến của nền kinh tế thị trường, sự phát triển của ngành khoa học pháp lí việc điều chỉnh pháp lý có những sự thay đổi căn bản cho nên việc giải quyết tranh chấp Bảo hiểm xã hội đã có sự giải quyết thích hợp .

Tại Điều 46 Điều lệ Bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định 12

/CP ngày 26 /1/1995 Bảo hiểm xã hội đã được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 01 /2003 CP ngày 9/ 1/2003 quy định: “khi xảy ra tranh chấp giữa người lao

động hoặc người sử dụng lao động với cơ quan Bảo hiểm xã hội thì giải quyết theo Điều lệ Bảo hiểm xã hội”. Nhưng trong thực tế tại thời điểm đó không có văn bản nào quy định về trình tự thủ tục giải quyết các tranh chấp về Bảo hiểm xã hội. Tại Điều (5.11) của bản Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 606-TTg ngày 26/9/1995 có quy định một trong những nhiệm vụ quyền hạn của Bảo hiểm xã hội Việt Nam là giải quyết kịp thời các khiếu nại của người tham gia Bảo hiểm xã hội về việc thực hiện các chế độ, chính sách Bảo hiểm xã hội nhưng không chỉ rõ quy trình giải quyếtgiải quyết. Điều 41 Điều lệ Bảo hiểm xã hội đối với lực lượng vũ trang nhân dân ban hành kèm theo Nghị định 45/ CP ngày 15/7/1995 cũng quy định: “khi xảy ra tranh chấp giữa quân nhân, công an nhân dân hoặc thủ trưởng đơn vị quân đội, công an với cơ quan Bảo hiểm xã hội thì giải quyết theo Điều lệ Bảo hiểm xã hội”. Nhưng cơ chế giải quyết cụ thể chưa được quy định trong các văn bản đó cũng như chưa được quy định ở văn bản pháp luật khác.

Có thể thấy cơ chế giải quyết khiếu nại trước khi có Luật Bảo hiểm xã hội ra đời có quy định nhưng không được giải quyết một cách triệt để phải đến năm 2006 Luật Bảo hiểm xã hội được ban hành thì đã cụ thể hoá một cách rõ ràng hơn Tại Điều 130, 131 Luật Bảo hiểm xã hội và Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 hướng dẫn một số Điều của Luật Bảo hiểm xã hội về Bảo hiểm xã hội bắt buộc đã quy định cơ chế khiếu nại tố cáo về Bảo hiểm xã hội trong đó người khiếu nại về Bảo hiểm xã hội gồm: “người lao động, người

đang hưởng lương hưu, trợ cấp Bảo hiểm xã hội hàng tháng, người đang bảo


Formatted: Font: .VnTime



lưu thời gian đóng Bảo hiểm xã hội và những người khác có quyền khiếu nại quyết định, hành vi của người sử dụng lao động, tổ chức Bảo hiểm xã hội khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó vi phạm pháp luật về Bảo hiểm xã hội, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Người sử dụng lao

động có quyền khiếu nại quyết định, hành vi của tổ chức Bảo hiểm xã hội khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó vi phạm pháp luật về Bảo hiểm xã hội, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Thẩm quyền trình tự thủ tục giải quyết được thực hiện theo quy định pháp luật về khiếu nại tố cáo. Vì chế độ Bảo hiểm thai sản là một trong những chế độ Bảo hiểm xã hội bắt buộc nên cơ chế giải quyết khiếu nại về Bảo hiểm thai sản được giải quyết như Bảo hiểm xã hội.

- Cơ chế kiện tụng:

Kiện tụng là việc các bên trong tranh chấp Bảo hiểm thai sản đưa vụ tranh chấp ra giải quyết trước cơ quan toà án để phân định tính đúng đắn của mỗi bên. Quyền kiện tụng là một trong những quyền cơ bản của công dân yêu cầu nhà nước bảo vệ quyền lợi cho mình .Theo quy định taị Điều 151 khon 2 taị Điều 151 khoản 2 Bộ luật lao động năm 1994 đã được sửa đổi bổ sung ngày 2/4/2002 :“Tranh chấp về bảo hiểm xã hội giữa người lao động và người sử dụng lao động được giải quyết theo các quy định tại các chương XIV của Bộ luật này. :“Tranh chp vbo him xã hi gia người lao động và người

sdng lao động được gii quyết theo các quy định ti các chương XIV ca

Blut này. Tranh chÊp giữa người lao động đã nghỉ viÖc theo chế độ với người sử dụng lao động hoặc với cơ quan Bảo hiểm xã hội, giữa người sử dụng lao động với cơ quan Bảo hiểm xã hội do hai bên thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì do toà án nhân dândân giải quyết”.

Quy định này đã dựa trên tiêu chí về chủ thể tham gia vào quan hệ tranhchấp để xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Theo đó, nếulà tranh chấp giữa người lao động đang làm việc với người sử dụng lao động


sẽ được giải quyết theo trình tự giải quyết tranh chấp lao động quy định tạichương XIV Bộ luật lao động. Trường hợp này dù được coi là tranh chấp lao

động cá nhân hay tranh chấp tập thể thì khi giải quyết các tranh chấp về Bảohiểm thai sản đều phải thông qua hội đồng hoà giải. Trường hợp hoà giảikhông thành hoặc quá thời hạn hoà giải thì mỗi bên tranh chấp có quyền yêucầu toà án nhân dân giải quyết.

Các tranh chấp về Bảo hiểm xã hội nói chung và Bảo hiểm thai sản nóiriêng được quy định tại Điều 151 Khoản 2 Điểm b Bộ luật lao động thì khôngbắt buộc phải qua hoà giải tại cơ sở mà các bên tranh chấp có quyền yêu cầutoà án nhân dân giải quyết.đó dựa trờn tiờu chớ về chủ thể tham gia vào quan

hệ tranh chấp để xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Theo

đó, nếu là tranh chấp giữa người lao động đang làm việc với người sử dụnglao động sẽ được giải quyết theo trình tự giải quyết tranh chấp lao động quy

định tại chương XIV Bộ luật lao động. Trường hợp này dù được coi là tranhchấp lao động cá nhân hay tranh chấp tập thể thì khi giải quyết các tranh chấpvề Bảo hiểm thai sản đều phải thông qua hội đồng hoà giải. Trường hợp hoàgiải không thành hoặc quá thời hạn hoà giải thì mỗi bên tranh chấp có quyềnyêu cầu toà án nhân dân giải quyết.

Các tranh chấp về Bảo hiểm xã hội nói chung và Bảo hiểm thai sản nóiriêng được quy định tại Điều 151 Khoản 2 Điểm b Bộ luật lao động thì khôngbắt buộc phải qua hoà giải tại cơ sở mà các bên tranh chấp có quyền yêu cầutoà án nhân dân giải quyết.

Theo Nghị địnhNghị định 152/2006/NĐ-CP, đương sự có quyền đưa vụ việc ra toà án nhân dân trong các trường hợp :

- Không đồng ý với kết quả giải quyết lần đầu;

- Quá thời hạn giải quyết khiếu nại mà khiếu nại không được giải


Formatted: Font: .VnTime

quyết;

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/10/2023