Pháp luật Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài tại địa bàn Nhật Bản - 8

Việt Nam hết hợp đồng quay trở về nước thì sẽ không còn được hưởng trợ cấp này nữa. Điều này là một điểm thiệt thòi cho NLĐ vì họ không tham gia ở Việt Nam nên khi về nước cũng không được hưởng chế độ trợ cấp này. Đồng thời pháp luật BHXH Nhật Bản chưa có sự liên kết với pháp luật BHXH Việt Nam nên chế độ trợ cấp này sẽ chấm dứt khi NLĐ trở về nước.

Theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, quy định về BHXH bắt buộc đối với NLĐ đi làm việc ở nước ngoài khá cụ thể. Phần lớn NLĐ đi làm việc ở nước ngoài chỉ tham gia quỹ BHXH bắt buộc ở 02 chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Với NLĐ đã từng tham gia BHXH bắt buộc thì mức đóng hàng tháng bằng 22% tiền lương tháng đóng BHXH của NLĐ trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Với người chưa tham gia BHXH bắt buộc thì mức đóng bằng 22% của 2 lần mức lương cơ sở tại Việt Nam. NLĐ có thể đóng 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng/lần hoặc đóng trước một lần theo thời hạn hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài. NLĐ đóng trực tiếp cho cơ quan BHXH nơi cư trú trước khi đi xuất khẩu lao động (XKLĐ) hoặc đóng qua doanh nghiệp, tổ chức phái cử. Các doanh nghiệp không phải hỗ trợ tiền đóng BHXH cho NLĐ mà chỉ thu hộ. Trong khi đó, các doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc chịu trách nhiệm thu hộ thì không biết phải thu BHXH bắt buộc của NLĐ theo hình thức nào, mức thu cụ thể bao nhiêu, trong trường hợp NLĐ cố tình không đóng thì giải quyết theo hướng nào?

Hiện nay phần lớn người đi lao động ở nước ngoài là lao động trẻ, chưa từng tham gia làm việc, hay đóng BHXH ở Việt Nam, công ty đã thông báo, giới thiệu về việc tham gia BHXH nhưng hầu như người lao động không muốn tham gia. Họ ít hiểu về chính sách BHXH mà chỉ quan tâm đến các nội dung, kỹ năng khi đi xuất khẩu lao động và các khoản bảo hiểm buộc phải đóng ở nước sở tại. Bên cạnh đó, nhiều NLĐ cũng bày tỏ thắc mắc về mức thu cao bằng 22% trên mức lương cơ sở. Bởi NLĐ làm việc ở các thị trường có mức thu nhập thấp như các nước Trung Đông, Malaysia lại đóng BHXH như người lao động ở các thị trường có thu nhập cao như Nhật Bản, Hàn Quốc... là chưa công bằng.

Hiện nay vẫn có một số ít NLĐ Việt Nam làm việc ở Nhật Bản đi làm việc với doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài vẫn bị bắt buộc tham gia vào chế độ BHXH ở Nhật Bản như đã trình bày ở trên dù họ vẫn tham gia đầy đủ 05 chế độ BHXH ở

Việt Nam. Chính vì vậy có thể thấy NLĐ phải đóng BHXH hai lần, một là ở nước họ là công dân, hai là nước sở tại nơi họ làm việc, việc này tăng thêm gánh nặng kinh tế cho NLĐ. Ngoài ra pháp luật còn quy định chưa rõ ràng về thủ tục hưởng BHXH khi NLĐ về nước. Người lao động làm việc ở đâu đi chăng nữa thì những vấn đề khó khăn như bị ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp… đều có thể xảy đến. NLĐ sẽ được hưởng các chế độ BHXH như chế độ ốm đau, chế độ thai sản, chế độ TNLĐ-BNN khi thỏa mãn các điều kiện được hưởng chế độ là các sự kiện có thực tế. Các sự kiện này cần được xác minh cụ thể bởi các cơ quan chức năng có thẩm quyền ở nơi NLĐ làm việc thực tế. Về chế độ ốm đau, quỹ BHXH khó xác định và giám sát được tình hình thực tế của NLĐ khi họ làm việc ở Nhật Bản. Về chế độ trợ cấp thai sản điểm bất hợp lý là thời gian đóng BHXH trước khi hưởng trợ cấp dẫn đến việc gây mất công bằng trong việc hưởng thụ nhất là trong trường hợp trợ cấp nghỉ sinh con. Ngoài tra, khoản trợ cấp một lần khi sinh nhằm mục đích bồi dưỡng cho người mẹ được quy định bằng một tháng lương trước khi nghỉ hưởng trợ cấp là bất hợp lý vì cũng có người lương cao, người lương thấp trong khi đó sự kiện phát sinh nhu cầu là như nhau. NLĐ làm việc ở Nhật Bản thì mức lương thường cao hơn NLĐ làm việc trong nước vì vậy có thể gây ra tình trạng thâm hụt quỹ BHXH đặc biệt trường hợp nghỉ thai sản kéo dài 06 tháng. Hơn thế việc xác định NLĐ làm việc ở nước ngoài có đủ điều kiện để hưởng chế độ thai sản khác như xảy thai, những biện pháp tránh thai… cũng rất khó dẫn đến khó khăn để thực hiện việc chi trả BHXH. Hơn thế việc xác định tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là hoàn toàn khó khăn. Chính bởi pháp luật quốc gia quy định định khác nhau và mỗi pháp luật quốc gia chỉ có giá trị pháp lý trên địa bàn lãnh thổ của mình nên không thể dùng luật BHXH của Việt Nam để xác định NLĐ có bị TNLĐ hay BNN ở nước NLĐ làm việc. Cách xác định theo quy định hiện hành còn chưa rõ ràng, đặc biệt là trường hợp TNLĐ trên đường từ nhà ở đến nơi làm việc và ngược lại. Đoạn đường và thời gian hợp lý như trong luật quy định khi xảy ra tai nạn là rất khó xác định trong trường hợp NLĐ làm việc ở nước ngoài. Hay danh sách BNN ở mỗi nước quy định là rất khác nhau nên khó xác định được chính xác bệnh này có thuộc đối tượng chi trả của quỹ BHXH hay không? Hơn thế BNN là vấn đề dài hạn nên có thể NLĐ về nước mới phát sinh bệnh một cách rõ ràng và với mức độ phù hợp với dấu hiệu của bệnh nghề nghiệp lúc này NLĐ không còn được chi trả BHXH

theo chế độ TNLĐ-BNN. Chính vì còn thiếu sự liên kết pháp luật song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản nên đây chính là sự thiệt thòi của NLĐ.

Luật BHXH và nghị định hướng dẫn cũng chưa có bất cứ điều kiện nào quy định, ràng buộc trách nhiệm của lao động đi làm việc ở nước ngoài về việc tham gia BHXH. Hiện cũng chưa có chế tài nào cưỡng chế số lao động này thi hành quy định tham gia BHXH bắt buộc. Do đó, việc đảm bảo NLĐ tham gia BHXH còn gặp nhiều khó khăn trong thực tế. Các doanh nghiệp cũng như cơ quan chức năng luôn đón nhận các quy định mới hướng đến an sinh xã hội, bảo đảm quyền lợi chính đáng cho NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên, khi luật được thực thi thì lại vướng nhiều khó khăn khi NLĐ không muốn tham gia BHXH, doanh nghiệp ngại thu hộ.

Trên thực tế còn tồn tại nhiều bất cập trong pháp luật BHXH dành cho NLĐ Việt Nam làm việc ở Nhật Bản, chính điều này gây ra việc thất thu quỹ BHXH hơn thế không bảo đảm được quyền lợi an sinh xã hội của NLĐ, không thực hiện đúng ý nghĩa nhằm san sẻ rủi ro bù đắp và thay thế phần thu nhập đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập của quỹ BHXH.

3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam làm việc theo hợp đồng ở Nhật Bản.

Mục tiêu của hệ thống BHXH là xây dựng một xã hội nhân đạo và văn minh, tạo nguồn tích lũy từ các khoản đóng góp của người lao động, tăng nguồn tài chính quốc gia nhằm bảo vệ tối đa người lao động, thực hiện quyền bình đẳng của mọi người trong độ tuổi lao động và trong các khu vực kinh tế khác nhau. Vì vậy hoàn thiện pháp luật BHXH là một việc làm rất cần thiết vừa để bảo vệ quyền lợi của NLĐ vừa đảm bảo nguồn thu cho quỹ BHXH. Trên cơ sở đó, từ những nghiên cứu về quy định pháp luật BHXH tại Việt và thực trạng nhóm lao động Việt Nam tại Nhật Bản, tác giả đề xuất một số kiến nghị sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 79 trang tài liệu này.

Tạo cơ hội tiếp cận mọi chế độ BHXH cho lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, mọi người đều có quyền bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, họ đều có quyền được bảo vệ trong các trường hợp rủi ro và biến cố mà không có sự phân biệt thành phần kinh tế, địa vị xã hội, giới tính, tôn giáo… Đây không chỉ đơn thần là nguyên tắc của BHXH mà còn là mục tiêu,

Pháp luật Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài tại địa bàn Nhật Bản - 8

nhiệm vụ chiến lược của BHXH đã được Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII chỉ rõ: “ … từng bước mở rộng vững chắc hê thống Bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội, tiến tới áp dụng chế độ Bảo hiểm cho mọi người lao động”. Thực tế cho thấy, NLĐ làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức sự nghiệp được phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề với doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề, NLĐ đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức hợp đồng cá nhân đều là NLĐ vì vậy họ đều bình đẳng có quyền tham gia các chế độ BHXH như nhau không bị phân biệt đối xử. Pháp luật cần điều chỉnh về quy định vấn đề này sao cho phù hợp với tình hình kinh tế thị trường tự do hội nhập hiện nay. Theo đó, lao động Việt Nam ở nước ngoài dù với loại hình hợp đồng nào thì cũng nên được tạo điều kiện để tham gia tất cả các chế độ BHXH. Việc tham gia đó sẽ là cơ sở để họ có thể được thụ hưởng quyền lợi liên quan khi gặp rủi ro, hướng đến việc bảo vệ sức lao động và nguồn thu nhập từ sức lao động của đối tượng này.

Xây dựng cơ chế tương tác giữa hệ thống BHXH của Việt Nam và Nhật

Bản.

Hiện nay, NLĐ đi làm việc ở Nhật Bản còn gặp nhiều khó khăn trong việc

đóng BHXH, hưởng các chế độ trợ cấp hiện hành vì vậy cần phải sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật. Khi NLĐ Việt Nam sang làm việc ở Nhật Bản thì bắt buộc phải tham gia đầy đủ các loại bảo hiểm theo pháp luật Nhật Bản như bảo hiểm xã hội, y tế, bảo hiểm an toàn lao động…khám sức khỏe định kỳ theo quy định của chính phủ Nhật Bản. Trong khi đó NLĐ làm việc ở nước ngoài là đối tượng bắt buộc phải tham gia chế độ hưu trí và chế độ tử tuất ở Việt Nam. Do pháp luật BHXH Nhật Bản chỉ có hiệu lực pháp lý trên địa bàn Nhật Bản nên sau khi NLĐ về nước sẽ không được hưởng các chế độ trợ cấp đã tham gia ở Nhật Bản nữa như đã phân tích ở trên. Chính vì thế cần có sự liên kết pháp luật giữa nước đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài và nước nhận NLĐ cụ thể là giữa Việt Nam và Nhật Bản cần có sự thống nhất về việc đóng BHXH và hưởng các chế độ trợ cấp. Nhằm bảo vệ quyền lợi của NLĐ hơn thì nên có sự quy đổi thời gian đã tham gia BHXH bên

Nhật Bản vào thời gian đóng BHXH tại Việt Nam để tránh làm gián đoạn việc đóng vào quỹ BHXH của NLĐ đặc biệt là đối với các chế độ BHXH ngắn hạn. Tuy nhiên để thực hiện được điều đó thì việc quy đổi giữa quỹ BHXH của Nhật Bản và quỹ BHXH của Việt Nam cần có sự quy định rõ ràng có thể hình thành một quỹ BHXH chung nhằm chi trả cho NLĐ Việt Nam làm việc ở Nhật Bản để tránh các trường hợp NLĐ Việt Nam về nước sẽ không còn nhận được các khoản trợ cấp về TNLĐ- BNN. Vấn đề bảo vệ quyền lợi cho NLĐ phải đứng trên lợi ích lâu dài và vì lợi ích của toàn xã hội, toàn quốc gia, của các thế hệ NLĐ và các tập thể NLĐ khác nhau với mục đích và sự phát triển bền vững của xã hội chứ không thể chỉ đứng trên phương diện bảo vệ lợi ích của một tập thể nào. Có như vậy thì hoạt động BHXH mới phát triển bền vững và hiệu quả.

Trên thực tế có nhiều NLĐ đi làm việc ở nước ngoài chưa tham gia BHXH bắt buộc hoặc đã tham gia BHXH bắt buộc nhưng đã hưởng BHXH một lần vì vậy họ có nhu cầu khi về nước cũng được hưởng trợ cấp BHXH luôn một lần. Hiện nay việc hoàn lại tiền còn gặp nhiều khó khăn do NLĐ không được hướng dẫn cụ thể về việc xin hoàn lại tiền hay NLĐ về nước rồi nên không hoàn thành được thủ tục hoàn lại tiền. Chính vì vậy, Nhà nước cần quy định cụ thể việc hưởng BHXH trợ cấp một lần và hỗ trợ NLĐ được hoàn lại tiền khi tham gia các chế độ BHXH. Hơn thế do NLĐ bị bắt buộc tham gia các chế độ BHXH ngắn hạn ở Nhật Bản bảo hiểm y tế, bảo hiểm bồi thường tai nạn cho NLĐ…, trong 2 năm kể từ khi ra khỏi nước Nhật có quyền làm đơn xin hoàn lại tiền. Tuy nhiên việc hoàn lại tiền này hoàn toàn khó khăn trong việc quỹ BHXH Việt Nam không chi trả cho các khoản trợ cấp này. Chính vì thế, cần có các quy định cụ thể của pháp luật về việc này.

Bên cạnh việc NLĐ chỉ phải tham gia 2 chế độ là chế độ hưu trí và chế độ tử tuất ở Việt Nam thì NLĐ trong các doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài lại tham gia đầy đủ 5 chế độ BHXH Việt Nam đồng thời vẫn phải tham gia chế độ BHXH dành cho người nước ngoài lao động tại Nhật Bản. Việc đóng BHXH 2 lần này là không hợp lý vì NLĐ khi bị ốm đau hay thai sản thì chỉ được hưởng một chế độ BHXH chính vì vậy gây ra sự thiệt thòi cho NLĐ. Hơn thế việc pháp luật quốc gia chỉ áp dụng trên lãnh thổ quốc gia gây cho NLĐ làm việc ở Nhật không thể dễ dàng được hưởng trợ cấp các chế độ của BHXH Việt Nam. Nhằm đảm bảo quyền lợi của

NLĐ khi tham gia BHXH thì giữa Việt Nam và Nhật Bản cần thống nhất cách xác định NLĐ bị ốm đau, quy định rõ các trường hợp được coi là tai nạn lao động hay bổ sung danh mục bệnh nghề nghiệp bằng cách thiết lập các hiệp định song phương hoặc cơ chế hợp tác đa phương.

Để thực hiện tốt việc chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH thì cần có sự hợp tác giám sát tình hình của NLĐ ở Nhật Bản nhằm tránh sự gian dối của NLĐ gây lạm vào quỹ BHXH, đồng thời hỗ trợ Nhà nước trong việc đảm bảo công bằng giữa NLĐ trong nước và NLĐ ở nước ngoài. Hơn thế, để đảm bảo cho việc cân đối giữa thu và chi của quỹ BHXH được hợp lý và để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước đồng thời làm giảm bớt mức đóng góp từ NLĐ đến mức tối đa mà vẫn đảm bảo được chi ở mức tối đa cho phép đối với NLĐ, giúp họ vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống hàng ngày. Để hạn chế việc NLĐ trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH thì Nhà nước cần ban hành các chế tài xử phạt hợp lý.

Một trong những cách thức hợp tác pháp lý hiệu quả giữa các quốc gia về một số lĩnh vực chuyên biệt như BHXH là ký kết các hiệp định song phương hoặc cùng tham gia một cơ chế đa phương. Theo đó, Việt Nam và Nhật Bản có thể tham khảo cách thức tham gia và thụ hưởng từng chế độ BHXH để có thể có sự thoả thuận hợp lý trong lĩnh vực này. Cụ thể, một hiệp định song phương có thể giúp cho lao động Việt Nam tại Nhật Bản chỉ phải tham gia vào một hệ thống BHXH tại một thời điểm nhất định, nhưng quyền lợi của họ sẽ được đảm bảo ngay cả khi họ làm việc ở Nhật hay quay trở về Việt Nam. Từ đó, quyền lợi BHXH của đối tượng này mới được bảo vệ một cách toàn vẹn.

Điều chỉnh độ tuổi về hưu bình đẳng giữa lao động nam và nữ.

Bên cạnh việc tham gia các chế độ BHXH ngắn hạn ở Nhật Bản, thì NLĐ bắt buộc phải tham gia chế độ hưu trí và chế độ tử tuất ở Việt Nam. Về chế độ hưu trí, đây là chế độ có nhiều bất cập nhất trong các chế độ trợ cấp. Về độ tuổi nghỉ hưu hiện nay thì nam đủ 60 tuổi có đủ 25 năm đóng BHXH, nữ đủ 55 tuổi có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên thì được hưởng trợ cấp hưu hàng tháng. Trên thực tế sự chênh lệch về tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ là quá nhiều, không phù hợp với khả năng tâm sinh lý của NLĐ, bởi vì theo các điều tra về xã hội học thì tuổi thọ trung bình hiện nay của nữ cao hơn nam. Về chế độ tử tuất, việc quy định mức trợ cấp như hiện nay là thấp và không đảm bảo công bằng đối với NLĐ, đặc biệt là trong

trợ cấp một lần. Nhà nước nên sửa đổi theo hướng: đối với NLĐ đang làm việc hoặc chờ giải quyết trợ cấp hưu trí mà chết thì mỗi năm được tính bằng 01 tháng lương (hiện này là ½ tháng) bình quan tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, tối đa không quá 20 tháng (hiện nay là 12 tháng); đối với người đang hưởng trợ cấp hàng tháng (hưu trí hoặc TNLĐ-BNN hàng tháng) mà chết thì cách tính như trên nhưng mỗi năm đã hưởng trợ cấp thì trừ đi 02 tháng trợ cấp, tối thiểu là 05 tháng (hiện nay là 03 tháng). Viêc quy định như vậy sẽ đảm bảo được công bằng hơn đối với các trường hợp chế khi chưa được hưởng trợ cấp hưu trí hoặc mới hưởng được ít.

Tóm lại BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế và xã hội của Nhà nước, là một trong các bước hiện thực hóa những chủ trương, đường lối để giải quyết các vấn đề xã hội có liên quan đến một tầng lớp đông đảo NLĐ được Nhà nước quan tâm và các vấn đề kích thích phát triển kinh tế. Mặt khác, BHXH là một trong những bộ phận cấu thành nên hệ thống an sinh xã hội và việc nhìn vào cách thức tổ chức hệ thống BHXH của một quốc gia mà người ta có thể đánh giá được sự văn minh, tiến bộ của quốc gia đó như thế nào nên việc hoàn thiện hệ thống BHXH cũng như hoàn thiện pháp luật là rất cần thiết. Do đó, Việt Nam cần một mặt hoàn thiện quy định pháp luật quốc gia và mặt khác, tiền hành xây dựng hiệp định song phương và tham gia các cơ chế đa phương để bảo vệ quyền lợi chính đáng của NLĐ làm việc ở Nhật Bản nói riêng và NLĐ làm việc ở nước ngoài nói chung.

KẾT LUẬN


Ra đời và phát triển cùng với quá trình phát triển cao của các nền kinh tế sản xuất hàng hóa, các hình thức sản xuất hàng hóa, các hình thức hoạt động bảo hiểm, trong đó có hình thức BHXH đã được hình thành hàng trăm năm nay. Từ nhu cầu sơ khai ban đầu của hoạt động BHXH là nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động làm công ăn lương trong thời gian tạm thời mất sức lao động do ốm đau, thai sản hoặc bị tai nạn lao động,… Đến nay hình thức hoạt động của các hệ thống BHXH ở các nước trên thế giới đã phát triển rất đa dạng cả về hình thức tổ chức thực hiện cho đến các loại chế độ trợ cấp đối với người lao động.

Ở Việt Nam, trong những năm vừa qua đã đạt được những thành tựu nổi bật trong sự nghiệp phát triển kinh tế và ổn định xã hội, từng bước nâng cao đời sống của người dân. Người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài ngày càng nhiều đặc biệt ở thị trường Nhật Bản đã trở thành một trong những nước tiếp nhận người lao động Việt Nam nhiều nhất. Một trong những quyền lợi chính đáng mà những người lao động này quan tâm là quyền lợi về BHXH. Hơn nữa, ở cấp vĩ mô, các quy định của pháp luật BHXH vừa là động lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội vừa là thước đo trình độ văn minh của quốc gia. Hiện nay chúng ta đã hình thành được một hệ thống BHXH bảo vệ người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài hoàn toàn phù hợp với pháp luật quốc tế.

Vấn đề hoàn thiện các chế độ BHXH dành cho người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài đang cần được Đảng và Nhà nước quan tâm nhất là trong nền kinh tế hội nhập, việc người lao động di trú ngày càng tăng nhanh. Từ đó, bài nghiên cứu phân tích một số vấn đề pháp lý dẫn đến việc lao động Việt Nam tại nước ngoài chưa được thụ hưởng đầy đủ các quyền lợi và BHXH. Nội dung nghiên cứu còn tập trung đến nhóm lao động Việt Nam tại Nhật Bản để phát hiện những bất cập trong thực thi quy định pháp luật về BHXH. Từ đó, khoá luận đưa ra một số kiến nghị điều chỉnh sửa đổi pháp luật bằng cách hoàn thiện một số quy định pháp luật và xây dựng hiệp định song phương hoặc cơ chế đa phương.

Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận sẽ không tránh khỏi những sai sót nhất định. Do vậy, rất mong và chân thành tiếp thu những ý kiến đóng góp, nhận xét của các thầy cô giáo và bạn bè.

Xem tất cả 79 trang.

Ngày đăng: 07/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí