Hệ Số Tỷ Lệ An Toàn Vốn Tối Thiểu (Tỷ Số Cooke)


NLP = 0: Ngân hàng ở trong trạng thái cân bằng thanh khoản, cung thanh khoản bằng với cầu thanh khoản. Tuy nhiên, đây là tình trạng rất khó xảy ra trên thực tế.

Hình 2.1: Ba vị thế tính thanh khoản cơ bản


Số dư

Số dư

Số dư

Tài sản

Tài sản

Nợ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 87 trang tài liệu này.

Nợ

Nợ

Phân tích tình hình thanh khoản tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu - 3

Tài sản

Thời gian

a) Cân bằng

Thời gian

b) Thâm hụt

Thời gian

c) Dư thừa

Nguồn: Joel Bessis (1999).

2.2 RỦI RO THANH KHOẢN

2.2.1 Khái niệm

a. Rủi ro

Theo quan điểm truyền thống, rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố khác liên quan đến nguy hiểm, khó khăn, hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người. Hay theo Joel Bessis (1999), rủi ro là những bất trắc có thể dẫn tới thua lỗ hoặc thiệt hại về lợi nhuận.

Theo quan điểm trung hòa, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Rủi ro vừa có thể mang đến cho con người những tổn thất, mất mát, nguy hiểm nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội, thời cơ không ngờ. Thông qua việc nghiên cứu và nhận dạng rủi ro, ta có thể tìm ra được những biện pháp phòng ngừa, hạn chế mặt tiêu cực và tận dụng phát huy những mặt tích cực do rủi ro mang tới.

b. Rủi ro thanh khoản

Theo định nghĩa của Ủy ban thanh tra ngân hàng Basel, rủi ro thanh khoản là rủi ro mà một định chế tài chính không đủ khả năng tìm kiếm đầy đủ nguồn vốn để đáp ứng các nghĩa vụ đến hạn mà không làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh hàng ngày và cũng không gây tác động đến tình hình tài chính. Khi đó, ngân hàng không thể có được đủ số vốn khả dụng để thực hiện các nghĩa vụ tài chính của mình hoặc thực hiện với chi phí cao các nghĩa vụ tài chính, các cam kết tài chính đối với khách hàng hoặc đối tác khi đến hạn ở bất cứ thời điểm và bất cứ loại đồng tiền nào.

Thanh khoản là nhu cầu thiết yếu của bất cứ tổ chức nào. Tuy vậy, nhu cầu thanh khoản của TCTD như ngân hàng là cấp thiết hơn cả. Vì TCTD có những cam kết phải thanh toán theo yêu cầu của nhiều loại hình tiền gửi và tín dụng (như tiền gửi KKH, tiền gửi tiết kiệm, tín dụng thư, cam kết tín dụng,…). Khả năng quản lý rủi ro thanh khoản yếu kém có thể khiến cho ngân hàng không thể đáp ứng yêu cầu rút tiền


gửi của khách hàng hoặc giải ngân tín dụng. Nếu trường hợp này xảy ra thì lợi nhuận, uy tín và tín dụng của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng, ngân hàng mất khả năng thanh toán.

2.2.2 Nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản:

Theo công văn số 1318/NVQĐ – QLRR.12 ngày 15/9/2012 v/v ban hành Chính sách QLRR thanh khoản của NHTMCP Á Châu, nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản được chia thành 2 yếu tố chính.

a. Do các yếu tố bên ngoài ngân hàng (market – wide risk)

- Khủng hoảng kinh tế xảy ra làm tăng tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng đối tác, dẫn đến ngân hàng mất khả năng thanh toán khi đến hạn. Khi một ngân hàng xảy ra tình trạng mất thanh khoản sẽ gây ra tâm lý xấu cho khách hàng, mất lòng tin vào sự an toàn của ngân hàng, người dân đồng loạt rút tiền ở các ngân hàng trong cùng một khoản thời điểm. Điều này sẽ gây ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống ngân hàng và rủi ro thanh khoản sẽ xảy ra trên diện rộng.

- Sự thay đổi của lãi suất tác động không chỉ đến người gửi tiền mà cả người vay vốn. Lãi suất giảm làm cho những người gửi tiền tại ngân hàng rút vốn nhằm đầu tư vào nơi có tỷ suất sinh lợi cao hơn; trong khi đó những người đi vay lại muốn vay nhiều hơn vì lãi suất thấp. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến thanh khoản của ngân hàng.

- Tăng trưởng tín dụng quá nóng so với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ huy động. Cùng với cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, chủ yếu tập trung đầu tư vào thị trường bất động sản với mục đích chạy theo lợi nhuận sẽ làm tăng nguy cơ rủi ro khi thị trường này đóng băng, dẫn đến mất cân đối về kỳ hạn giữa tài sản nợ và có của ngân hàng. Điều này tạo ra rủi ro thanh khoản cao đối với NHTM.

- Với điều kiện thông tin chưa minh bạch, bất cân xứng, nhiều khách hàng đã rút tiền từ ngân hàng này sang ngân hàng khác, hay rút tiền để tích trữ vàng, ngoại tệ đã làm cho thị trường nội và ngoại tệ trở nên bất ổn, gây khó khăn cho việc dùng các công cụ thị trường để điều tiết có hiệu quả thanh khoản của các ngân hàng.

b. Do nội tại ngân hàng (bank – specific risk)

- Ngân hàng huy động/vay mượn các khoản tiền gửi của các cá nhân và định chế tài chính khác trong ngắn hạn; sau đó chuyển hóa chúng thành những tài sản đầu tư để cho vay với thời gian dài hơn. Vì vậy đã gây ra tình trạng mất cân đối về kỳ hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn; dòng tiền thu về từ tài sản đầu tư thấp hơn dòng tiền chi ra để trả các khoản tiền gửi đến hạn.

- Ngân hàng tập trung tín dụng trung và dài hạn và nguồn vốn huy động KKH vào một số nhóm khách hàng lớn. Khi họ bất ngờ rút lượng tiền lớn, sẽ buộc ngân hàng phải đi vay thêm để bổ sung hoặc bán bớt tài sản. Do bán gấp nên khi huy động ngân hàng phải chịu lãi suất cao, hoặc phải bán tài sản với giá thấp hơn so với giá thực tế trên thị trường. Điều này sẽ làm giảm thu nhập của ngân hàng. Hoặc khi có những biến cố xảy ra đến nhóm khách hàng này cũng sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín, lợi nhuận và trạng thái thanh khoản của ngân hàng.


- Sự phát triển của các công cụ phái sinh khiến cho rủi ro thanh khoản từ hoạt động ngoại bảng cũng ngày càng gia tăng. Khi các nghĩa vụ thanh toán xảy ra như cam kết bảo lãnh, nghĩa vụ thanh toán các hợp đồng đến hạn thì sẽ phát sinh nhu cầu thanh khoản và ngân hàng có thể đối mặt với rủi ro thanh khoản. Bên cạnh đó, khi khách hàng chuyển dịch mạnh từ loại tiền tệ này sang loại tiền tệ khác làm cho ngân hàng không đủ khả năng đáp ứng, dẫn đến thiếu hụt lượng lớn loại tiền tệ đó.

- Ngân hàng có chiến lược QLRR thanh khoản không phù hợp và kém hiệu quả, các chứng khoán đang nắm giữ có tính thanh khoản thấp, nguồn vốn dự trữ của ngân hàng không đủ đáp ứng cho nhu cầu chi trả tại thời điểm đó, thiếu các công cụ quản lý hữu hiệu, yếu kém từ quản trị tài sản Nợ, Có;…….

- Công tác dự báo và phân tích thị trường của ngân hàng còn yếu và nhiều hạn chế. Các NHTM thường dựa dẫm vào cơ chế nhà nước, trong khi những ngân hàng nước ngoài thì lại thường xuyên nghiên cứu, dự báo các diễn biến của thị trường để dự phòng, điều chỉnh vốn thanh khoản một cách hợp lý, tránh được tình thế bị động trước những biến đổi/tác động của thị trường.

2.3. CHIẾN LƯỢC QUẢN TRỊ THANH KHOẢN

2.3.1 Quy tắc quản trị thanh khoản:

- Quy tắc 1: Duy trì mối liên hệ chặt chẽ giữa hoạt động của phòng nguồn vốn và phòng tín dụng (bao gồm cả phòng đầu tư); trên cơ sở đó phối hợp hoạt động của các phòng này nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý thanh khoản của ngân hàng.

- Quy tắc 2: Nhà quản trị thanh khoản phải được biết trước khi nào các khách hàng lớn có kế hoạch rút tiền gửi, sử dụng hạn mức tín dụng hay bổ sung tiền gửi,… để có thể đưa ra những kế hoạch đón đầu, chủ động trong xử lý các trạng thái thâm hụt hay thặng dư thanh khoản phát sinh đột biến một cách hiệu quả.

- Quy tắc 3:Nhà quản trị thanh khoản phải biết chắc chắn và rõ ràng về các mục tiêu và những ưu tiên trong quản lý thanh khoản của ngân hàng. Theo truyền thống, trạng thái thanh khoản được xem là mục tiêu hàng đầu của ngân hàng trong phân bổ và sử dụng nguồn vốn. Nguyên nhân là do ngân hàng có thể kiểm soát được hoàn toàn việc phân bổ sử dụng vốn của hình. Còn ngày nay, nhìn chung quản trị thanh khoản không còn được xem là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, mà chỉ có chức năng hỗ trợ cho mục tiêu kinh doanh của ngân hàng là cấp tín dụng và các dịch vụ thu phí. Lúc này, nhiệm vụ của nhà quản lý thanh khoản là tìm kiếm đủ nguồn vốn để tài trợ cho các khoản tín dụng mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng.

- Quy tắc 4: Nhu cầu thanh khoản của ngân hàng và các quyết định liên quan đến vấn đề thanh khoản phải được phân tích liên tục nhằm giảm thiểu trường hợp thặng dư hay thâm hụt về thanh khoản; tránh thu nhập của ngân hàng bị tổn thất, chịu chi phí cao trong việc bán hay vay mượn tài sản.


2.3.2 Chiến lược quản trị thanh khoản:

a. Dựa trên tài sản có

Chiến lược truyền thống này đòi hỏi dự trữ thanh khoản dưới hình thức tài sản có tính thanh khoản cao như tiền mặt, các khoản tương đương tiền, các tài sản có tính thanh khoản phổ biến như trái phiếu kho bạc, các khoản vay NHNN, trái phiếu, tiền gửi tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, chứng khoán của cơ quan chính phủ,…. Khi nhu cầu thanh khoản xuất hiện, ngân hàng bán các tài sản dự trữ để lấy tiền, đáp ứng đủ cho nhu cầu thanh khoản, chuyển đổi các tài sản phi tiền mặt thành tiền mặt.

Với việc dựa vào tài sản có, ngân hàng có thể hoàn toàn chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu thanh khoản của mình mà không bị lệ thuộc vào các đối tượng khác. Tuy nhiên chiến lược này cũng làm ngân hàng chịu khá nhiều chi phí khi bán tài sản đã đầu tư, tài sản bị giảm giá so với giá thực trên thị trường,…

b. Dựa vào tài sản nợ

Nguồn vay mượn thanh khoản chủ yếu của ngân hàng là chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn, tiền vay NHNN, hợp đồng mua lại, hợp đồng chiết khấu,… Với chiến lược này, ngân hàng phải chịu phụ thuộc khá nhiều vào thị trường tiền tệ để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Nếu một ngân hàng vay mượn quá nhiều thì sẽ bị đáng giá kém trong khả năng tự chủ tài chính, làm ảnh hưởng xấu đến tâm lý của những khách hàng của ngân hàng này, dẫn đến uy tín và lợi nhuận của ngân hàng bị giảm sút.

c. Dựa vào cả tài sản và nguồn vốn

Bằng cách kết hợp cả tài sản và nguồn vốn, chiến lược quản trị thanh khoản cân bằng có thể dung hòa những hạn chế của hai chiến lược trên. Các nhu cầu thanh khoản hằng ngày sẽ được đáp ứng bằng tài sản dự trữ như tiền mặt, tiền gửi tại các ngân hàng khác, các khoản tương đương tiền,…; những nhu cầu thanh khoản theo tính chất thời vụ, sẽ được tài trợ bằng những thỏa thuận trước về hạn mức tín dụng từ các ngân hàng đại lý hoặc nhà cung ứng vốn khác; còn các nhu cầu thanh khoản đột ngột, không thể dự đoán trước được thì sẽ được đáp ứng từ việc vay mượn vốn trên thị trường tiền tệ.

2.3.3 Mô hình quản trị rủi ro thanh khoản

a. Mô hình PEARLS

Mô hình PEARLS là hệ thống được thiết kế để giám sát hiệu quả hoạt động tài chính cho riêng đối với các tổ chức nhận tiền gửi và được Hiệp hội tín dụng quốc tế (WOCCU) nghiên cứu làm mô hình giám sát từ cuối những năm 1980. Hệ thống chỉ tiêu và tiêu chuẩn giám sát theo mô hình PEARLS:

- P (Protection) - Chỉ tiêu đảm bảo an toàn: Mục tiêu của chỉ tiêu này nhằm đảm bảo khả năng an toàn cho người gửi tiền. Những khoản trích lập dự phòng rủi ro là hàng rào bảo vệ đầu tiên trước những rủi ro có thể xảy ra. Những khoản dự phòng này rất cần thiết, đặc biệt khi có dấu hiệu khoản vay không có khả năng thu hồi, bởi vậy các tổ chức tài chính phải để lại một phần thu nhập để trích lập dự phòng rủi ro.


- E (Effective Financial Structure) - Chỉ tiêu cấu trúc tài chính hiệu quả: Cấu trúc tài chính ảnh hưởng tới sự tăng trưởng, khả năng sinh lời và hiệu quả hoạt động của tổ chức tài chính. Hiệp hội tín dụng thường dùng tối đa giá trị tài sản có để cho vay nhằm cơ hội thu được lợi nhuận nhiều nhất. Chỉ tiêu này tập trung đề cập việc huy động vốn của tổ chức và cả hoạt động sử dụng vốn

- A (Asset Quality) - Chất lượng tài sản có: Đây là nhân tố chính ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của tổ chức tài chính. Quá nhiều các khoản cho vay không thu hồi được hoặc các khoản cho vay nhưng trì hoãn trả nợ nhiều lần; tỷ lệ tài sản không sinh lời giữ lại nhiều sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận của tổ chức.

- R (Rates of Return and Costs) – Chỉ tiêu thu nhập và chi phí: Thu nhập và chi phí ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ tăng trưởng của tổ chức. Do vậy, chỉ tiêu này đánh giá khả năng mang lại thu nhập trong quá trình hoạt động. Bên tài sản có, xem xét loại tài sản nào có khả năng mang lại thu nhập cao nhất, còn đối với bên tài sản nợ, phải xem xét loại tài sản nào huy động mất chi phí lớn nhất hoặc nhỏ nhất.

- L (Liquidity) – Chỉ tiêu thanh khoản: Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng an toàn của ngân hàng thông qua đánh giá khả năng duy trì những khoản đầu tư ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu rút tiền đột xuất của khách hàng; đo lường lượng thanh khoản dự trữ tại NHNN hoặc các khoản dự trữ khác và tỷ lệ tổng tài sản có được đầu tư vào những tài sản lỏng không sinh lời.

- S (Signs of Growth) – Dấu hiệu của sự tăng trưởng: Dấu hiệu tăng trưởng ảnh hưởng trực tiếp tới cấu trúc tài chính của tổ chức và đòi hỏi phải có sự giám sát chặt chẽ để đảm bảo sự cân bằng và phản ánh sự hài lòng của khách hàng, sự cung ứng sản phẩm thích hợp và sự tăng trưởng tài chính của tổ chức.

b. Mô hình CAMELS

Mô hình CAMEL phân tích năm khía cạnh truyền thống được xem là quan trọng nhất trong hoạt động của một trung gian tài chính. Năm lĩnh vực phản ánh các điều kiện tài chính và khả năng hoạt động nói chung của một TCTD.

- C (Capital) – Khả năng tự cân đối vốn: Đây là phần VCSH của TCTD và khả năng của TCTD đáp ứng các món vay cũng như các định hướng phát triển tài sản tiềm năng mà TCTD cần đạt được. CAMEL xem xét khả năng của TCTD trong việc huy động thêm VCSH trong trường hợp thua lỗ cũng như chính sách để thiết lập dự trữ trong trường hợp có rủi ro hoạt động.

- A (Assets) – Chất lượng tài sản: Nhằm đo lường chất lượng nói chung của các món vay và các tài sản khác, bao gồm các khoản cho vay cơ sở hạ tầng. Do đó phải xem xét sự phù hợp của hệ thống phân loại các món vay, quá trình thu thập thông tin và các chính sách xóa nợ.

- M (Management) – Quản lý: Các chính sách về quản lý con người, các chính sách quản lý chung của tổ chức, các hệ thống thông tin, các chế độ kiểm soát và kiểm toán nội bộ, các kế hoạch chiến lược và ngân sách đều được xem xét một cách riêng rẽ để phản ánh toàn bộ chất lượng của hoạt động quản lý.


- E (Earnings) – Lợi nhuận: Đây là nhân tố quan trọng của việc phân tích doanh thu và chi phí, bao gồm cả mức độ hiệu quả của hoạt động và chính sách lãi suất cũng như các kết quả hoạt động tổng quát được đo lường bằng các chỉ số.

- L (Liquidity) – Thanh khoản: Đây là nhân tố được sử dụng khi phân tích khả năng của tổ chức trong việc xác định nhu cầu tài trợ cho dự án nói chung cũng như nhu cầu vốn cho vay nói riêng. Cấu trúc nợ và VCSH của tổ chức, khả năng thanh toán của các tài sản ngấn hạn cũng là một nhân tố rất quan trọng trong việc đánh giá tổng quan khả năng quản lý tính lỏng của tổ chức.

2.4. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐO LƯỜNG RỦI RO THANH KHOẢN

2.4.1 Vốn điều lệ

Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 do Quốc hội ban hành ngày 12/12/2005 định nghĩa “Vốn điều lệ là số vốn do các thành viên, cổ đông góp hoăc cam kết góp trong một thời hạn nhất định và được ghi vào Điều lệ công ty”. Cũng theo quy định của pháp luật, các TCTD phải đảm bảo mức vốn điều lệ thực có không thấp hơn mức vốn pháp định theo quy định của pháp luật. Vốn điều lệ được sử dụng để: mua, đầu tư vào tài sản cố định của ngân hàng không quá tỷ lệ quy định của NHNN; góp vốn, mua cổ phần theo quy định của NHNN; thành lập công ty con theo quy định của pháp luật; cho vay và kinh doanh các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.

2.4.2 Hệ số tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (Tỷ số Cooke)

Theo Koehn (1980), vào giữa những năm 1970, tỷ lệ an toàn vốn được đề cập và tính bằng tỷ số tổng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản. Đến năm 1988, Basel đưa ra khái niệm và các tính chính thống cho tỷ lệ an toàn vốn trên toàn thế giới. Theo đó, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là thước đo chủ yếu đánh giá sức mạnh, tiềm lực tài chính của một ngân hàng từ quan điểm của cơ quan quản lý.



Các khoản mục được quy định theo thông tư số 13/2010/TT – NHNN do NHNN ban hành quy định tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD. Cụ thể:

- Vốn cấp 1: (i) Vốn điều lệ; (ii) Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ; (iii) Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ; (iv) Lợi nhuận không chia; (v) Thặng dư cổ phần.


- Vốn cấp 2: (i) 50% số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản cố định theo quy định của pháp luật; (ii) 40% số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản chính theo quy định của pháp luật; (iii) Quỹ dự phòng tài chính; (iv) Trái phiếu chuyển đổi do TCTD phát hành và các công cụ nợ khác thỏa mãn các điều kiện được quy định.

- Các khoản giảm trừ bao gồm: (i) Lợi thế thương mại; (ii) 100% số dư nợ tài khoản đánh giá lại tài sản cố định theo quy định của pháp luật; (iii) 100% số dư nợ tài khoản đánh giá lại tài sản tài chính theo quy định của pháp luật; (iv) Khoản lỗ kinh doanh; (v) Các khoản góp vốn, mua cổ phần của TCTD khác; (vi) Các khoản góp vốn, mua cổ phần của công ty con; (vii) Các khoản góp vốn, mua cổ phần của các công ty con không thuộc đối tượng hợp nhất báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật.

- Hệ số rủi ro được quy định tại thông tư 13/2010/TT – NHNN (phụ lục 9).

Hệ số CAR dùng để xác định khả năng của ngân hàng trong việc thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các rủi ro khác. Đây là một trong năm tiêu chuẩn quan trọng mà các NHTM phải đáp ứng để đảm bảo an toàn hoạt động, theo định hướng QLRR của NHNN trong từng giai đoạn.

2.4.3 Hệ số giới hạn huy động vốn H1


Trong đó:

Tổng nguồn vốn huy động bao gồm: (i) Tiền gửi của cá nhân dưới các hình thức; (ii) Tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức; (iii) 25% tiền gửi KKH của TCKT (trừ TCTD); (iv) Tiền vay của tổ chức trong nước, tiền vay của TCTD khác có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên, tiền vay của TCTD nước ngoài; (v) Vốn huy động từ tổ chức, cá nhân dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá. (Theo thông tư số 19/2010/TT – NHNN).

Hệ số này nhằm mục đích giới hạn mức huy động vốn của ngân hàng để tránh tình trạng khi ngân hàng huy động vốn quá nhiều, vượt quá mức bảo vệ vốn tự có làm cho ngân hàng có thể mất khả năng chi trả. Nếu chênh lệch trong khoảng cách giữa vốn tự có và vốn huy động càng lớn thì hệ số an toàn của ngân hàng sẽ càng thấp.

2.4.4 Hệ số tỷ lệ giữa vốn tự có với tổng tài sản có H2



Trong đó:

Tổng tài sản có bao gồm: tiền mặt; vàng; tiền gửi tại NHNN; tiền, vàng gửi, cho vay tại các TCTD khác; các loại chứng khoán do Chính phủ Việt Nam, chính phủ các nước thuộc OECD phát hành hoặc bảo lãnh thanh toán; các chứng khoán do TCTD hoạt động tại Việt Nam phát hành hoặc bảo lãnh thanh toán; các loại chứng khoán được niêm yết; các khoản cho vay không có bảo đảm, trừ nợ xấu, đến hạn thanh toán;


và các khoản cho vay có bảo đảm, cho thuê tài chính, trừ nợ xấu, đến hạn thanh toán. (Theo thông tư số 13/2010/TT – NHNN ban hành ngày 20/5/2010).

Hệ số được đưa ra để đánh giá mức độ rủi ro của tổng tài sản có của một ngân hàng. Thông thường ngân hàng nào gặp phải sự sụt giảm về tài sản do rủi ro càng lớn thì lợi nhuận của ngân hàng đó càng thấp và ngược lại. Hệ số H2 cho phép tài sản của ngân hàng sụt giảm ở một mức độ nhất định so với vốn tự có của ngân hàng.

2.4.5 Chỉ số trạng thái tiền mặt H3




Chỉ số trạng thái tiền mặt là hệ số quan trọng trong việc đánh giá tính thanh khoản của ngân hàng. Chỉ số ngày cao đảm bảo cho ngân hàng có khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản tức thời. Cả hai công thức H3 và *H3 đều phản ánh được khả năng thanh khoản của ngân hàng vì tiền gửi thanh toán tại NHNN của các ngân hàng thường chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tài khoản tiền gửi tại NHNN, chủ yếu là tài khoản tiền gửi dự trữ bắt buộc. Ngoài ra, nếu tính cả tiền gửi KKH và có kỳ hạn tại các TCTD vào phần tử số mà chỉ số H3 thấp thì khi loại trừ khoản mục tiền gửi có kỳ hạn khỏi công thức, chỉ số H3 sẽ càng thấp.

2.4.6 Chỉ số năng lực cho vay H4



Dư nợ được tính toán ở đây gồm dư nợ tín dụng và dư nợ cho thuê tài chính. Công văn số 674/NHNN – CSTT quy định dư nợ tín dụng bao gồm: (i) Dư nợ cấp tín dụng theo quy định; (ii) Số dư mua trái phiếu doanh nghiệp (trừ trái phiếu do TCTD phát hành); (iii) Dư nợ cho vay bằng vốn ủy thác của tổ chức không phải TCTD.

Chỉ số năng lực cho vay là chỉ số thanh khoản âm vì cho vay là tài sản có tính thanh khoản thấp nhất mà ngân hàng nắm giữ. Nếu chỉ số H4 càng lớn thì ngân hàng càng bộc lộ sự yếu kém trong khả năng thanh khoản của mình.

2.4.7 Chỉ số dư nợ/tiền gửi khách hàng H5



Chỉ số dư nợ/tiền gửi khách hàng dùng để đánh giá cách thức ngân hàng sử dụng tiền gửi của khách hàng để cung ứng cho các hoạt động cho vay, cung ứng tín dụng của mình. Phần lớn lượng tiền gửi của khách hàng là gửi tiết kiệm với thời hạn ngắn trong khi hoạt đông cho vay lại chủ yếu trung và dài hạn. Do vậy, tỷ lệ này càng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/05/2022