hoàn thiện khả thi.
Điểm nổi bật nhất của đề tài là nghiên cứu chi tiết về mô hình quản lý rủi ro tín dụng đang áp dụng tại một ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, nhằm rút kinh nghiệm và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình đang nghiên cứu.
6. Bố cục của đề tài:
Đề tài gồm lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần phụ lục và nội dung đề tài được trình bày trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng thương mại.
- Chương 2: Mô hình quản lý rủi ro tín dụng và tình hình hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam (VIB) - Chi nhánh Vũng Tàu
- Chương 3: Đánh giá và đề xuất những giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý rủi
ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam (VIB)
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN LÝ RỦI RO
TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Có thể bạn quan tâm!
- Phân tích mô hình quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam VIB - Chi nhánh Vũng Tàu và các giải pháp hoàn thiện - 1
- Các Nguyên Nhân Chủ Yếu Dẫn Đến Rủi Ro Tín Dụng:
- Xây Dựng Và Thực Hiện Chính Sách Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng:
- Bài Học Kinh Nghiệm Và Định Hướng Áp Dụng Mô Hình Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Nhtm Việt Nam:
Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.
1.1. Tín dụng và rủi ro tín dụng:
1.1.1. Tín dụng ngân hàng:
Từ “tín dụng” có gốc la tinh từ chữ “creditium” có nghĩa là lòng tin, sự tín nhiệm; vì tín dụng thực chất chủ yếu dựa trên cơ sở của sự tín nhiệm. Người chủ sở hữu khi cho vay luôn tin tưởng rằng người đi vay sẽ hoàn trả đầy đủ khi đến hạn.
Tín dụng là một phạm trù kinh tế khách quan nhằm phản ánh mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó bên chủ thể sở hữu giao một lượng giá trị bằng tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng và chủ thể sử dụng có nhiệm vụ hoàn trả với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu sau một thời gian được xác định.
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch vay mượn tài sản giữa ngân hàng (bên cho vay) và khách hàng (bên đi vay), trong đó bên đi vay được sử dụng tài sản của bên cho vay trong một khoảng thời gian được thỏa thuận trước và phải hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Nói một cách khác, tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn giữa ngân hàng và khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.
Bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các
đặc trưng sau:
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản);
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn;
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc;
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở bên đi vay cam
kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Vai trò của tín dụng:
- Thứ nhất, tín dụng Ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp, không chỉ đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước mà còn tác động đến cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tín dụng thúc đẩy sự ra đời của các
thành phần kinh tế theo mục tiêu phát triển của đất nước;
- Thứ hai, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế để thực hiện tái sản xuất mở rộng, tín dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế, tạo nhiều sản phẩm hàng hoá tiêu dùng nội địa và xuất khẩu;
- Thứ ba, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, và các chương trình, dự án mang tính xã hội khác;
- Thứ tư, tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn sản xuất mở rộng
quá trình phân công lao động xã hội và hợp tác kinh tế trong nước và quốc tế;
- Thứ năm, thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, Nhà nước có thể kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đề ra các biện pháp chính sách quản lý kinh tế và hoạt động của các thành phần kinh tế thông qua các chính sách về tín dụng như là các chính sách ưu đãi về lãi suất và các điều kiện cho vay khác cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất theo mục tiêu định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước;
Chức năng của tín dụng: tập trung và phân phối lại tài nguyên theo nguyên tắc có hoàn trả; tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông; phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế;
Nguyên tắc tín dụng: Vốn vay phải hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi; Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả; Vốn vay phải đảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hóa tương đương.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng được hiểu là các nghiệp vụ: cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính hoặc các nghiệp vụ tài trợ vốn khác của ngân hàng cho khách hàng theo nguyên tắc thỏa thuận và có hoàn trả.
Theo Luật các Tổ chức Tín dụng thì:
- Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, vốn huy động để cấp tín dụng;
- Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận cho khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác;
- Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng:
Việc phân loại tín dụng dựa trên một số tiêu thức nhất định tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu:
1.1.2.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
Phân chia theo thời gian cho vay có 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn cho vay đến 12 tháng, chủ yếu được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: từ trên 12 tháng đến 60 tháng, thường được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án có quy mô nhỏ với thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: trên 60 tháng, thường được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu đầu tư dài hạn như xây dựng nhà ở, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
1.1.2.2. Căn cứ vào hình thức tín dụng:
Dựa vào tiêu chí này tín dụng bao gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức cấp tín dụng khác, trong đó:
- Chiếu khấu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của một giấy nợ trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một giấy nợ chưa đến hạn.
- Cho vay: là việc ngân hàng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi, bao gồm các loại sau:
Thấu chi: là việc ngân hàng cho phép người vay được chi vượt số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Cho vay từng lần: là hình thức cho vay của ngân hàng đối với các khách hàng ít có nhu cầu vay thường xuyên.
Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận
cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch
sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Ngân hàng cho doanh nghiệp vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi bán hàng.
Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng mà khách hàng trả gốc làm nhiều lần
trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận.
- Bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Phân theo mục tiêu có các loại bảo lãnh như sau:
Bảo lãnh dự thầu: là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư (hay chủ thầu) về
việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các quy định dự thầu.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất thay khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết, gây tổn thất cho bên thứ ba.
Bảo lãnh tiền ứng trước: là cam kết của ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho bên thụ hưởng bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không trả.
Bảo lãnh vay vốn: là cam kết của ngân hàng đối với người cho vay (tổ chức tín dụng, các cá nhân…) về việc sẽ trả gốc lãi đúng hạn nếu khách hàng (người đi vay) không trả được.
Bảo lãnh thanh toán: là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh toán tiền theo đúng hợp đồng kinh tế cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh toán đủ.
- Cho thuê tài chính: là việc ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu gần đủ (hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê và có lãi. Hết hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó.
- Các hình thức cấp tín dụng khác: thẻ ghi nợ, bao thanh toán, L/C,…
1.1.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, có 2 loại:
- Tín dụng có tài sản bảo đảm: là loại tín dụng được cấp có thế chấp, cầm cố bằng tài sản (của bên vay hoặc bên thứ ba). Sự bảo đảm này là biện pháp đảm bảo cho ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai (thông qua việc xử lý tài sản bảo đảm) khi khách hàng không có hoặc không đủ khả năng hoàn trả nợ đúng hạn.
- Tín dụng không có tài sản bảo đảm: là loại tín dụng được cấp dựa trên uy tín
và khả năng tài chính lành mạnh của khách hàng hoặc được bảo lãnh bằng uy tín của
bên thứ ba.
1.1.2.4. Phân loại theo rủi ro:
Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời, được phân loại thành 5 nhóm theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước:
Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán;
Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại
thời hạn trả nợ;
Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày;
Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày;
Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu
lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
1.1.2.5. Phân loại khác:
- Theo mục đích sử dụng vốn có tín dụng sản xuất, tín dụng tiêu dùng,…
- Theo đối tượng tín dụng sử dụng vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh có tín
dụng vốn lưu động và tín dụng vốn cố định.
- Theo đối tượng cho vay tiêu dùng: tín dụng nhà đất, cho vay mua ô tô, cho vay
du học, …
Cách phân loại này cho thấy tính đa dạng trong sản phẩm tín dụng của ngân hàng và cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức, chính sách quản lý phù hợp.
1.1.3. Rủi ro ngân hàng và rủi ro tín dụng:
1.1.3.1. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là những biến cố không mong đợi khi xảy ra
dẫn đến sự tổn thất về tài sản hoặc uy tín của ngân hàng. Các ngân hàng thường chịu
nhiều loại rủi ro khác nhau, bao gồm các rủi ro cơ bản sau:
- Những rủi ro từ môi trường hoạt động như: Rủi ro luật pháp, Rủi ro kinh tế, Rủi ro cạnh tranh và Rủi ro định chế;
- Những rủi ro từ nguồn nhân lực của ngân hàng: Rủi ro biển thủ, Rủi ro tổ chức, Rủi ro năng lực và Rủi ro tác nghiệp;
- Những rủi ro từ tổ chức bán hàng: Rủi ro hoạt động, Rủi ro kỹ thuật, Rủi ro sản
phẩm mới và Rủi ro chiến lược;
- Những rủi ro liên quan đến tài chính được thể hiện trên bảng cân đối tài sản của
ngân hàng: Rủi ro tín dụng, Rủi ro thanh khoản, Rủi ro lãi suất và Rủi ro vốn CSH.
Phân loại rủi ro theo yêu cầu quản trị rủi ro:
Trong quản trị ngân hàng hiện đại thì các ngân hàng xếp các loại rủi ro thành các
nhóm chính để xây dựng bộ máy quản trị:
- Rủi ro chiến lược là rủi ro phát sinh do việc hoạch định chiến lược kinh doanh vượt quá các nguồn lực có thể thực hiện hoặc quá thận trọng nên không sử dụng hiệu quả các nguồn lực của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh liên quan đến hoạt động cấp tín dụng cho khách hàng mà vì lý do nội bộ hay ngoại cảnh mà khách hàng mất khả năng thanh toán một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ thanh toán hoặc thanh toán không đúng hạn được quy định tại hợp đồng.
- Rủi ro thị trường là rủi ro phát sinh do những thay đổi bất thường về giá như lãi suất, tỷ giá hối đoái, giá chứng khoán và giá các tài sản khác do Ngân hàng nắm giữ trong quá trình hoạt động kinh doanh hoặc theo các giao dịch bảo đảm hoặc các giao dịch có tài sản bảo đảm tương tự khác;
Rủi ro lãi suất là rủi ro từ việc có những thay đổi bất lợi lên lợi nhuận kỳ vọng từ lãi trong các năm hoạt động hiện tại và tương lai gây ra bởi sự thay đổi về lãi suất và sự chênh lệch giữa tài sản và nguồn vốn của ngân hàng.
- Rủi ro thanh khoản là rủi ro luồng tiền ra khỏi ngân hàng bất thường, hoặc phát sinh do chênh lệch kỳ hạn giữa tài sản có và nợ, hoặc không kịp hoặc không thể chuyển hóa tài sản thành tiền để đáp ứng kịp thời các nhu cầu chi trả; là tình trạng ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn khả dụng, có thể gây thua lỗ, làm định trệ hoạt động kinh doanh hoặc làm mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản.
- Rủi ro hoạt động là rủi ro dẫn đến tổn thất do nguyên nhân con người, những thiếu sót hoặc vận hành không tốt quy trình, hệ thống nội bộ hoặc do các sự kiện khách quan bên ngoài; Cấu thành rủi ro hoạt động gồm có: gian lận nội bộ; gian lận từ bên ngoài; nội quy và an toàn nơi làm việc; khách hàng, sản phẩm và thông lệ kinh doanh; thiệt hại về vật chất; gián đoạn kinh doanh và các sự cố hệ thống; thực hiện, chuyển giao và quản lý quy trình.
Rủi ro tín dụng được coi là rủi ro lớn nhất đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung bới các hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
1.1.3.2. Rủi ro tín dụng:
Rủi ro trong ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào hoạt động tín dụng. Đây là rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra, có thể khiến ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng.
“Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.” - theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là khả năng tiềm ẩn có thể gây tổn thất về vốn và thu nhập cho Ngân hàng phát sinh khi đối tác không đáp ứng được một phần hoặc toàn bộ các điều khoản của Hợp đồng tín dụng hay không thực hiện đầy đủ như đã thỏa thuận theo các điều khoản của Hợp đồng tín dụng;
Rủi ro tín dụng xuất hiện trong quá trình cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng, bao thanh toán và các hình thức cấp tín dụng khác của ngân hàng.