Cơ Sở Lý Luận Về Hoạt Động Huy Động Tiền Gửi Tại Các Ngân Hàng Thương Mại


đó tìm ra những nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển huy động vốn tiền gửi tại BIDV - Chi nhánh Hai Bà Trưng.

6. Kết cấu của đề tài

Ngoài lời mở đầu, kết luận và phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo luận văn được kết cấu gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động huy động tiền gửi tại các ngân hàng thương mại

Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động tiền gửi tại BIDV – Chi nhánh Hai Bà Trưng

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động tiền gửi tại BIDV – Chi nhánh Hai Bà Trưng


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Tổng quan về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.


1.1.1. Giới thiệu chung các hoạt động chính của Ngân hàng thương mại

Phân tích hoạt động huy động tiền gửi tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Hai Bà Trưng - 3


Theo Luật các tổ chức tín dụng (2010) và các văn bản sửa đổi: "Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và hoạt động chủ yếu, thường xuyên của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu, cung ứng dịch vụ thanh toán và thực hiện các hoạt động khác có liên quan".

Trong nền kinh tế, các ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, kinh doanh hàng hóa đặc biệt là Tiền. Các ngân hàng thương mại được cho là mạch máu của nền kinh tế.

Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, hệ thống ngân hàng thương mại giúp đa dạng hóa các kênh huy động vốn cho nền kinh tế. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, vai trò của các ngân hàng thương mại trong việc cung cấp vốn, đa dạng hóa các hình thức thanh toán là rất quan trọng để lưu thông hàng hóa diễn ra theo quy luật của thị trường, thúc đẩy kinh tế phát triển.

Theo Luật các TCTD (2010) và các văn bản sửa đổi, hệ thống ngân hàng Việt nam gồm có Ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã... số lượng các NHTM là lớn nhất. Cũng theo Luật các TCTD (2010) và các sửa đổi: “NHTM là loại hình Ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.

Theo Peter S.Rose (2004), các dịch vụ truyền thống của Ngân hàng thương mại là huy động vốn, cho vay và các dịch vụ thanh toán gồm: mua bán, thu đổi ngoại tệ, chiết khấu thương phiếu, cho vay, nhận tiền gửi, bảo quản vật có giá, bán các dịch vụ bảo hiểm...


Theo Luật các TCTD (2010) và các sửa đổi, các nghiệp vụ của NHTM có thể phân chia thành:

* Nghiệp vụ huy động vốn: Đây là một trong những hoạt động cơ bản đầu tiên của NHTM. Các cá nhân và tổ chức kinh tế có những khoản tiền nhàn rỗi, gửi vào ngân hàng, NHTM có thể sử dụng những khoản tiền huy động này để thực hiện các mục đích kinh doanh khác nhau mà pháp luật cho phép, cam kết trả đầy đủ gốc và lãi cho khách hàng theo thỏa thuận khi đến hạn. Các phương thức huy động rất đa dạng và người ta có thể chia huy động vốn: Theo đối tượng huy động gồm khách hàng tổ chức kinh tế, khách hàng định chế tài chính, khách hàng cá nhân; Chia theo loại tiền ta có huy động vốn nội tệ VNĐ, huy động vốn ngoại tệ; Chia theo kỳ hạn ta có huy động vốn không kỳ hạn, huy động vốn có kỳ hạn....

* Nghiệp vụ tín dụng: Các ngân hàng huy động vốn và sử dụng chủ yếu để cho vay – tức là thực hiện hoạt động đi vay để cho vay. Theo quy chế cho vay ban hành theo thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng nhà nước: cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cho vay giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Định nghĩa trên được các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác áp dụng để làm tiền đề căn bản cho các hoạt động cho vay của mình.

Hiện nay, hoạt động tín dụng của các NHTM bao gồm cho vay khách hàng doanh nghiệp, cho vay khách hàng cá nhân, cho vay ngắn hạn, cho vay trung dài hạn và các hình thức khác như chiết khấu giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các hoạt động tín dụng khác.

* Nghiệp vụ khác: Cung ứng dịch vụ thanh toán của các ngân hàng thương mại ngày nay rất phát triển, đặc biệt trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, các ngân hàng thương mại đã tự phát triển hoặc hợp tác với các Fintech để cung


cấp các giải pháp thanh toán và giao dịch ngân hàng hiện đại, nhiều tiện ích cho khách hàng. Bên cạnh đó các ngân hàng vẫn cung cấp các giao dịch truyền thống tại quầy như chuyển tiền, thực hiện các dịch vụ thanh toán séc, thẻ ngân hàng, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, nhờ thu, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác. Các dịch vụ thanh toán giúp cho các ngân hàng tăng tỷ trọng thu ngoài lãi và đẩy mạnh hoạt động huy động vốn cũng như tín dụng ngân hàng.

Như vậy, hoạt động chính của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế có đối tượng kinh doanh là tiền tệ. Ngân hàng thương mại đóng vai trò là một kênh huy động vốn và cung cấp vốn cho nền kinh tế; Cầu nối các doanh nghiệp với thị trường; Cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính thế giới.

1.1.2. Các hình thức huy động vốn chủ yếu của Ngân hàng thương mại


Huy động vốn là nghiệp vụ đầu tiên và cơ bản nhất của các Ngân hàng thương mại. Huy động vốn là huy động nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các tổ chức và cá nhân bằng nhiều hình thức khác nhau để hình thành nên nguồn vốn hoạt động của các ngân hàng thương mại. Nói cách khác, huy động vốn ngân hàng thương mại là việc tổ chức tín dụng sử dụng các nghiệp vụ nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, và các nghiệp vụ ngân hàng khác của mình để huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế.

Để thuận tiện cho ngân hàng trong việc huy động vốn và sử dụng nguồn vốn, các ngân hàng chia ra nhiều hình thức huy động vốn nhằm mục tiêu khách hàng dễ dàng chọn lựa, phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn của mình. Chúng ta có thể phân chia các hình thức huy động vốn theo các tiêu chí sau đây:

1.1.2.1 Theo thời gian huy động


* Vốn ngắn hạn: Là hình thức ngân hàng thương mại huy động vốn không kỳ hạn và có kỳ hạn với thời gian ngắn và dưới 12 tháng.

* Vốn trung hạn: Có thời gian huy động từ 1 năm đến 3 năm. Nguồn vốn


này được các ngân hàng thương mại sử dụng để cho các doanh nghiệp vay trung hạn đối với các dự án đầu tư chiều sâu mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho bản thân doanh nghiệp.

* Vốn dài hạn: Nguồn vốn này có thời gian huy động trên 3 năm và được NHTM sử dụng vào nhiệm vụ đầu tư phát triển theo định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước như: đầu tư vào các dự án phục vụ quốc tế dân sinh, các dự án đổi mới thiết bị công nghệ, xây mới các nhà máy... Lãi suất mà ngân hàng thương mại phải trả cho chủ sở hữu nguồn vốn này thường rất cao.

1.1.2.2 Theo đối tượng huy động


* Huy động từ các tổ chức kinh tế: Với tư cách là trung tâm thanh toán, các ngân hàng thương mại thực hiện việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho các khách hàng. Từ đó một khối lượng tiền khổng lồ được chuyển qua các ngân hàng thương mại để thực hiện chức năng thanh toán của nó theo yêu cầu của chủ tài khoản. Do đó sự đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản phải trả, cho nên hệ thống tài khoản thanh toán của ngân hàng luôn hình thành một số dư tiền gửi nhất định và nó đã trở thành nguồn vốn huy động có chi phí thấp, nếu biết khai thác sử dụng thì nguồn vốn này sẽ mang lại hiệu quả rất lớn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.

* Huy động từ các tầng lớp dân cư: Mỗi một gia đình và cá nhân trong xã hội đều có những khoản tiền tiết kiệm để dự phòng cho những nhu cầu chi dùng cho tương lai. Khi xã hội càng phát triển thì khoản dự phòng này càng lớn. Nắm được tình hình đó, các ngân hàng thương mại đã tìm mọi hình thức nhằm huy động tối đa các khoản tiết kiệm này, từ đó tạo ra một nguồn vốn không nhỏ để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế và thu được lợi nhuận cho bản thân ngân hàng.

* Vốn vay từ ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn vốn mà ngân hàng có được nhờ quan hệ vay mượn giữa ngân hàng


thương mại với ngân hàng nhà nước, giữa các ngân hàng thương mại với nhau và với các tổ chức tín dụng khác. Nguồn vốn này ngân hàng phải chịu với chi phí cao hơn, vì vậy chỉ trong trường hợp ngân hàng thiếu vốn khả dụng trong thời gian ngắn thì ngân hàng mới đi vay.

1.1.2.3 Huy động vốn từ tài khoản tiền gửi của khách hàng.


* Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi khách hàng gửi vào ngân hàng mà không có sự thoả thuận trước về thời gian rút tiền. Với loại tiền gửi này ngân hàng chỉ phải trả với một mức lãi suất thấp. Bởi vì tiền gửi loại này rất biến động, khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào, do đó ngân hàng không chủ động sử dụng số vốn này, ngân hàng phải dự trữ một số tiền đảm bảo để có thể thanh toán ngay khi khách hàng có nhu cầu.

* Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi khách hàng gửi vào ngân hàng có sự thoả thuận trước về thời hạn rút tiền. Loại tiền gửi này tương đối ổn định vì ngân hàng xác định được thời gian rút tiền của khách hàng. Do đó ngân hàng có thể chủ động sử dụng số tiền gửi đó vào mục đích kinh doanh trong thời gian ký kết. Đối với loại tiền gửi này, ngân hàng có rất nhiều loại thời hạn từ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng... mục đích là tạo cho khách hàng có được nhiều kỳ hạn gửi phù hợp với thời gian nhàn rỗi của khoản tiền mà họ có. Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.

1.1.2.4 Huy động vốn bằng phát hành các giấy tờ có giá.


* Trái phiếu ngân hàng: Là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và lãi) của ngân hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích của ngân hàng khi phát hành trái phiếu là nhằm huy động vốn trung và dài hạn. Việc phát hành trái phiếu, các ngân hàng thương mại chịu sự quản lý của ngân hàng nhà nước, của các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoán và có thể bị chi phối bởi uy tín của ngân hàng.


* Kỳ phiếu ngân hàng: Đây là loại giấy tờ có giá ngắn hạn (trong 1 năm). Nó có đặc điểm giống như trái phiếu nhưng có thời gian ngắn hạn hơn trái phiếu, vì vậy nó được sử dụng cho mục đích huy động vốn ngắn hạn của ngân hàng.

* Phát hành chứng chỉ tiền gửi: Nó là những giấy tờ xác nhận tiền gửi định kỳ ở một ngân hàng, người sở hữu giấy này sẽ được thanh toán tiền lãi theo kỳ hạn và nhận đủ vốn khi đến hạn. Chứng chỉ sau khi phát hành được lưu thông trên thị trường.

1.2. Hoạt động huy động tiền gửi tại Ngân hàng thương mại


1.2.1. Khái niệm tiền gửi tại Ngân hàng thương mại


Theo Nguyễn Thị Phương Liên (2011): Ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, với chức năng huy động vốn và sử dụng vốn đó để cho vay và đầu tư. Ngân hàng huy động vốn từ dân chúng, trả lãi cho các khoản tiền gửi đó, sử dụng vốn đó vào mục đích kinh doanh của mình là cho vay và đầu tư với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Vì thế, vốn tiền gửi là nguồn vốn quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh của một NHTM. Ngân hàng thực hiện việc mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của doanh nghiệp, tổ chức và dân cư. Vậy “Tiền gửi là tài sản bằng tiền của các tổ chức và cá nhân mà ngân hàng đang tạm thời quản lý sử dụng với trách nhiệm hoàn trả”.

Như vậy, tiền gửi là số tiền mà khách hàng đang gửi tại các TCTD, có thể là tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm hoặc dưới hình thức khác. Các khoản tiền gửi này được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi, nhưng TCTD phải có nghĩa vụ hoàn trả cho người gửi tiền số tiền gửi.

Theo Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010: Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có


hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.


Từ đó có thể thấy, huy động vốn tiền gửi là nghiệp vụ tiếp nhận vốn tiền gửi tạm thời nhàn rỗi từ các tổ chức và cá nhân bằng nhiều hình thức khác nhau để tạo nên một bộ phận nguồn vốn hoạt động của ngân hàng.

Người gửi tiền có thể lựa chọn các loại hình tiền gửi theo mục đích của họ và được hưởng các dịch vụ do ngân hàng cung cấp hoặc được hưởng lãi suất. Đồng thời có nghĩa vụ để ngân hàng sử dụng số tiền gửi đó cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng với cam kết thực hiện việc hoàn trả vào ngày đáo hạn (đối với tài khoản có kỳ hạn) hoặc theo yêu cầu của khách hàng (đối với tài khoản không kỳ hạn). Hiện nay, khách hàng có nhiều lựa chọn gửi tiền và có thể làm cho tài sản bằng tiền sinh ra lãi theo các dự đoán và tính toán khác nhau của chính họ.

1.2.2. Vai trò của hoạt động huy động tiền gửi tại Ngân hàng thương mại


Đối với Ngân hàng: Trong xu thế Ngân hàng Bán lẻ như hiện nay, có thể nói nguồn vốn tiền gửi từ khách hàng đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Nguồn vốn tiền gửi khách hàng cá nhân không chỉ đáp ứng được nhu cầu vốn cho vay, góp phần tăng tính thanh khoản, mà còn là yếu tố quyết định thương hiệu và uy tín của Ngân hàng.

Đối với khách hàng: Nghiệp vụ huy động vốn tiền gửi đem đến cho các khách hàng một nơi cất giữ tài sản an toàn, tích trữ vốn tạm thời khi nhàn rỗi; đồng thời còn cung cấp cho khách hàng một kênh đầu tư tiết kiệm sinh lời. Hơn nữa, đây là điều kiện để khách hàng tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng thuận tiện và nhanh chóng khác như: thanh toán qua Ngân hàng, chuyển khoản, vay vốn…một cách thuận tiện hơn. Huy động vốn sẽ giúp khuyến khích người dân sử dụng các dịch vụ thanh toán, gửi tiền qua Ngân hàng…từ đó làm giảm rủi ro, nguy hiểm trong việc cất trữ tài sản bằng tiền mặt.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/06/2023