vậy cũng phù hợp với với định nghĩa RRTD Basel 2 đưa ra. Như vậy, mặc dù nhà đầu tư có lợi nhuận nhưng mức lợi nhuận thu về không đạt như mong muốn sẽ làm phát sinh RRTD.
Tại Việt Nam, đã có các nghiên cứu về RRTD phát sinh. Đa phần các nghiên cứu trong nước đều có sự thống nhất về nội dung RRTD đó là: RRTD là khả năng mà bên vay nợ hoặc đối tác của các tổ chức tài chính không thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo điều khoản đã thỏa thuận. Với cách hiểu RRTD như trên, nhiều nghiên cứu đã cho thấy các khoản tiền cho vay thường có tỷ lệ rủi ro hơn so với các tài sản có khác, do tính lỏng thấp và tính rủi ro cao hơn nên các ngân hàng thường thu được lợi nhuận cao từ hoạt động tín dụng; trên thế giới, hoạt động tín dụng mang lại 2/3 thu nhập cho ngân hàng, tại Việt Nam, hoạt động tín dụng cũng mang lại khoảng 80% thu nhập cho ngân hàng. Một nghiên cứu khác của Hoàng Huy Hà (2014) cũng có cách hiểu RRTD trong ngân hàng đó là những tổn thất xảy ra đối với khoản nợ của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết, trong trường hợp này NHTM gặp rủi ro khi xảy ra tình trạng mất vốn hay đọng vốn đối với khoản vay [16]. Các nhà nghiên cứu như Nguyễn Quang Hiện (2016), Trần Thị Việt Thạch (2016), Nguyễn Thị Vân Anh (2017), Lê Thi Hạnh (2017) …cũng đều đồng quan điểm với cách định nghĩa về RRTD như trên [19], [40], [4], [18].
1.2. Một số nghiên cứu liên quan đến quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại
Một trong những yếu tố mang lại thành công của ngân hàng đó là việc có thể quản trị được tốt những ảnh hưởng của RRTD đối với hoạt động kinh doanh của mình. Quản trị RRTD hiệu quả có thể giúp tăng trưởng lợi nhuận nhưng vẫn đảm bảo được giảm thiểu rủi ro và tránh các khoản nợ xấu.Trong một thế giới luôn có sự thay đổi phát triển không ngừng, cùng với sự phát triển của những lợi ích mang lại từ việc quản lý rủi ro vốn, rủi ro ngoại hối thì cũng cần phải quan tâm đến quản lý RRTD. Cuộc khủng khoảng tài chính ngân hàng toàn cầu đã ảnh hưởng đến nhiều ngân hàng trong một thời gian dài, nợ quá hạn hoặc không thanh toán nợ chính là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến điều này. Quản trị tốt RRTD sẽ là một biện pháp hữu hiệu để khắc phục những rủi ro mang lại cho ngân hàng từ nợ quá hạn hoặc không thanh toán được nợ. Theo Vytautas (2009), trên thế giới hơn
50% rủi ro phát sinh tại các TCTD và các tổ chức tài chính là RRTD, do đó quản trị RRTD có hiệu quả đã dần trở thành nhiệm vụ quan trọng tại các tổ chức [115] .
Một số nghiên cứu nước ngoài:
Nhà nghiên cứu Patrick (2005) nghiên cứu về quản trị RRTD tập trung vào vai trò của các nhà quản lý rủi ro đối với quản trị RRTD, tác giả đã thiết kế bảng hỏi và phân tích để đưa ra được những ảnh hưởng của các nhà quản lý đến tỷ lệ lợi nhuận thu được của tổ chức [97]. Cùng hướng tiếp cận này, nghiên cứu của Robert (2010) cũng chỉ ra tầm quan trọng của các chuyên gia trong quản trị rủi ro, tác giả cho rằng sử dụng các chuyên gia trong lĩnh vực tín dụng có hai lợi thế so với chỉ sử dụng riêng một mô hình quản trị rủi ro sẵn có nào đó, bởi lẽ các chuyên gia sẽ nhận biết được những nhược điểm của các mô hình quản trị rủi ro, đồng thời họ có thể thuyết phục được ban quản lý của tổ chức thực hiện các chính sách để giảm thiểu rủi ro [101]. Nhà nghiên cứu Muninarayanappa (2004), Jeffrey (2009) cũng nghiên cứu quản trị RRTD theo sự điều hành của các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu kết luận quản trị RRTD đạt được thành công khi nhà quản lý, lãnh đạo tổ chức áp dụng chính sách quản trị RRTD trong đó không chỉ là sự kết hợp giữa chiến lược và chính sách tín dụng, mà còn phải đảm bảo duy trì kịch bản xử lý thích hợp cho RRTD [94], [83] . Điều này có nghĩa là cần phải quan tâm đặc biệt đến xác suất vỡ nợ trong hoạt động tín dụng tại các tổ chức. Hệ thống chuyên gia được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là phương pháp phổ biến để các tổ chức nói chung và NHTM nói riêng sử dụng khi đánh giá tín dụng, tuy nhiên một số nhà nghiên cứu cũng đã nêu lên một số hạn chế của phương pháp này như: các chuyên gia thường được lựa chọn từ các nhà quản lý, lãnh đạo và một số ít những chuyên gia bên ngoài tổ chức, NHTM, điều này dẫn đến có thể xuất hiện bất đồng trong quyết định đối với một khoản cấp tín dụng; thứ hai, hầu hết các chuyên gia đều là những người có kinh nghiệm lâu năm trong nghề, vì vậy nhiều quyết định sẽ dựa trên kinh nghiệm và ý chí chủ quan, đây là một trong những rủi ro phát sinh trong hoạt động tín dụng.
Theo Bagchi (2003), Saeed Fathi và cộng sự (2012), đã nghiên cứu quản lý RRTD trong các ngân hàng từ nhiều khía cạnh khác nhau bao gồm: xác định rủi ro, đo lường rủi ro, ứng phó rủi ro, kiểm soát rủi ro và kiểm toán rủi ro [56], [107]. Đây được hiểu là cách nghiên cứu rủi ro theo quy trình quản trị RRTD. Cùng quan điểm nghiên cứu với Bagchi, một số tác giả đi sâu nghiên cứu về XHTD và điểm tín
dụng – công cụ kiểm soát rủi ro thường xuyên được sử dụng trong quản trị RRTD tại các ngân hàng. Cụ thể các tác giả như Gang và cộng sự (2012), Saunders (2010) đều khẳng định cần đưa ra một khung đánh giá để chấm điểm, XHTD, đây là một trong những căn cứ tăng cường an toàn khi thực hiện phê duyệt một khoản cấp tín dụng của các ngân hàng [72], [110], Bessis (2015) chỉ ra rằng hệ thống XHTD được áp dụng trong suốt quá trình ra quyết định bao gồm giám sát, định giá cho vay, quản lý quy trình [85]… Theo Young (2008), khung XHTD và chấm điểm tín dụng nên có một số tiêu chí như: thông tin của khách hàng, mục đích xin cấp tín dụng, số tiền, thời gian trả nợ và tài sản bảo đảm [117]; William (2000) nghiên cứu và đưa ra kết luận về thu thập, sử dụng dữ liệu này trong khoảng từ 5 năm -10 năm để đánh giá xếp hạng tín dụng, các ngân hàng có thể dùng kết quả xếp hạng tín dụng này để dự báo khả năng trả nợ trong tương lai [105]. Morgan (2002) nghiên cứu trong thị trường tài chính toàn cầu về cơ bản có hai loại XHTD đó là: XHTD nội bộ và XHTD của các tổ chức bên ngoài, các tổ chức này thường là NHTW hoặc của các cơ quan chuyên thực hiện xếp hạng như Moody, S&P [93] … Hệ thống XHTD nội bộ cũng được đề cập trong nghiên cứu của Couto (2008) như là nội dung quan trọng để tính toán mức dự trữ vốn tối thiểu theo quy định chuẩn quốc tế Basel 2 [62]. Đối với quy trình quản trị RRTD, điểm tín dụng cũng là một nội dung mà nhiều nhà nghiên cứu thực hiện nghiên cứu tiếp cận. Điểm tín dụng là con số thể hiện uy tín của người nộp đơn vay vốn. Theo tác giả Yiping Huang và cộng sự (2020), Radoica (2017), Belas (2011), Steven (2012)… đều khẳng định mô hình điểm tín dụng là mô hình thuận lợi để đánh giá các rủi ro liên quan đến các khoản vay doanh nghiệp và cá nhân, đồng thời nó cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định đối với các khoản duyệt vay [118], [98], [57], [113]. Trái ngược với những ý kiến trên, tác giả Heffernan (2005) đã chỉ ra những hạn chế khi sử dụng mô hình chấm điểm tín dụng trong phê duyệt đó là: thứ nhất, khả năng dự báo trả nợ sẽ không chính xác vì dữ liệu được lấy trong quá khứ; thứ hai, sử dụng mô hình điểm tín dụng, kết quả đưa ra sẽ có chỉ có kết quả mặc định là đồng ý cấp tín dụng hoặc không cấp tín dụng, trong khi đó thực tế có nhiều loại kết quả khác nhau của việc phê duyệt [77]. Vì vậy Heffrenan cho rằng mô hình chấm điểm tín dụng thường được áp dụng cho những khoản vay có giá trị nhỏ. Một số tác giả tiếp cận quản trị rủi ro theo góc nhìn của ứng phó rủi ro, theo các tác giả này phương pháp ứng phó rủi ro phổ biến đó là
sử dụng các hợp đồng phái sinh. Theo Manuel (2001), phương pháp phổ biến nhất để giảm thiểu RRTD là dựa vào các hợp đồng phái sinh [89]. Tương tự Ammann (2003), Florenti (2016) ngoài việc khẳng định tầm quan trọng của hợp đồng phái sinh trong quản trị RRTD, đồng thời các tác giả đã rút ra những kết luận về sự ảnh hưởng của RRTD đến giá của các hợp đồng phái sinh [53], [71] . Bên cạnh đó, tại riêng thị trường Việt Nam, tác giả Đàm Luy (2010) cũng có nghiên cứu liên quan đến quản trị RRTD tại các phòng giao dịch của các NHTM Việt Nam thông qua tiếp cận các mặt về văn hóa tín dụng, chính sách tín dụng, nhân sự tín dụng, thực hiện và hiệu suất của hoạt động tín dụng [66]. Kết hợp với các số liệu thứ cấp, nhà nghiên cứu đã có những kết luận về chất lượng nhân sự tín dụng, một số khách hàng ưu tiên, hiệu suất cho vay không cao tại các PGD nhỏ thuộc các NHTM tại Việt Nam, từ đó đã đưa ra một số đề xuất cải tiến mang tính chất xây dựng cho những NHTM khảo sát.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam thịnh vượng - 1
- Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam thịnh vượng - 2
- Mô Hình Nghiên Cứu Định Lượng Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Trị Rrtd Tại Vpbank (Đối Với Cán Bộ Nhân Viên Vpbank)
- Lý Luận Chung Về Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại
- Tổ Chức Bộ Máy Quản Trị Rrtd Tại Các Nhtm Theo Hiệp Ước Basel 2
- Tổ Chức Thực Hiện Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.
Quản trị RRTD còn được tiếp cận nghiên cứu theo Hiệp ước Basel – Tiêu chuẩn quốc tế về vốn nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Theo hướng nghiên cứu này có thể kể đến một số tác giả như: Laurent (2006); Kalyan (2006); Smita (2018) [87], [81], [112],… đã đưa ra các ví dụ cụ thể và cung cấp các kỹ thuật có nhiều khả năng thực hiện đó là áp dụng Basel 2. Nghiên cứu chỉ ra những điều kiện và khó khăn của việc áp dụng Basel 2 trong quản lý đó là thị trường thường thiếu tiêu chuẩn hóa, không có sự ổn định, vấn đề về tập hợp các số liệu không đầy đủ. Chính vì vậy, các ngân hàng cần xây dựng một danh mục đầu tư tài sản rủi ro và xác định dung sai rủi ro dựa trên một phần của việc sử dụng điểm tín dụng và giá trị tín dụng. Cùng nghiên cứu quản trị RRTD theo Basel, một số nhà nghiên cứu đã theo hướng tiếp cận về hoạt động quản trị rủi ro thông qua ba vòng kiểm soát, theo Radoica (2017) sử dụng ba vòng kiểm soát trong quản trị rủi ro sẽ vừa đảm bảo được nguyên tắc quản lý chất lượng toàn diện vừa đảm bảo được hiệu quả trong hoạt động quản lý rủi ro tại các ngân hàng. Để mô hình ba vòng kiểm soát phát huy hiệu quả, các NHTM cần phải sắp xếp và hoàn thiện được mô hình tổ chức; văn bản chính sách; công cụ đo lường rủi ro; công tác báo cáo phân tích, giám sát; hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin và nâng cao văn hoá, đồng thời nhận thức mô hình 3 vòng kiểm soát góp phần giảm sự chồng chéo trong công việc, chức năng nhiệm vụ của các phòng, ban, đơn vị, đồng thời tăng hiệu quả quản trị rủi ro và năng suất hoạt động thông qua sự kết nối tại các đầu mối [98].
Một số nghiên cứu trong nước:
Tại Việt Nam, nghiên cứu về quản trị RRTD tại các NHTM cũng tương tự đi theo hướng nghiên cứu về quản trị RRTD trên thế giới. Các nghiên cứu tập trung tìm hiểu quản trị RRTD theo quy trình quản trị rủi ro, từ đó rút ra những đánh giá về thực trạng, các kết quả đạt được và tồn tại cần khắc phục của hoạt động quản trị rủi ro tại một số NHTM cụ thể ở Việt Nam, một số nghiên cứu đi theo hướng này như Nguyễn Tuấn Anh (2012), Tạ Đình Long (2016), Nguyễn quang Hiện (2016) [1], [24], [19]. Ngoài ra, hoạt động quản trị rủi ro tín dụng cũng được một số tác giả đặt trong mối quan hệ với Hiệp ước Basel 2 như: Nguyễn Thị Vân Anh (2014), Lê Thị Hạnh (2017), Trần Thị Việt Thạch (2016) [3], [18], [40],… hầu hết những kết quả nghiên cứu của các tác giả đều đã tóm lược được thực trạng quản trị RRTD theo thông lệ quốc tế tại các NHTM Việt Nam và có những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực quản trị RRTD theo thông lệ quốc tế cho các NHTM tại Việt Nam.
1.3 Một số nghiên cứu liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại NHTM
Các nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu nội dung của quản trị RRTD mà còn nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động này tại NHTM. RRTD là đối tượng cần phải quản trị trong hoạt động của NHTM. Quản trị RRTD và RRTD luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau và có tác động với nhau. Những nhân tố có ảnh hưởng đến RRTD cũng sẽ có tác động đến quản trị RRTD và bản thân quản trị RRTD cũng là nhân tố có ảnh hưởng đến RRTD. Cụ thể:
Theo Das (2007), Jiajia và cộng sự (2012) các tác giả đã thực hiện nghiên cứu những nhân tố tác động đến quản trị RRTD tại các NHTM trên thị trường Ấn Độ, Trung Quốc và Malaysia [69]; [84]. Thông qua phân tích, khảo sát thực tế số liệu trong từng giai đoạn, kết quả của những nghiên cứu này cho thấy những nhân tố có ảnh hưởng đến quản trị RRTD tại các NHTM, tập trung chủ yếu ở các nhóm bao gồm: nhóm kinh tế vĩ mô (tăng trưởng GDP, lạm phát và lãi suất); nhóm nhân tố từ chính bản thân NHTM (quy mô ngân hàng, tốc độ tăng trưởng tín dụng, cơ cấu tín dụng, chính sách tín dụng của ngân hàng trong từng thời kỳ, nguồn nhân lực của ngân hàng, nhóm các hệ số tài chính của ngân hàng…). Dựa trên những kết quả nghiên cứu này, khách hàng và các nhà đầu tư có thể đánh giá và đưa ra được những quyết định đúng đắn đối với hoạt động tài chính của mình, đồng thời dưới góc độ NHTM cũng
sẽ có những chính sách tín dụng phù hợp với đặc trưng của từng giai đoạn cụ thể nhằm đạt được hiệu quả quản trị RRTD một cách tốt nhất. Một góc nhìn tương tự của các nhà nghiên cứu Leen (2011), Idowu và cộng sự (2014), Hussain (2014), mức độ quản lý rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bao gồm đặc điểm của Hội đồng quản trị, quy định và thực tiễn kiểm toán nội bộ [88], [79], [78]. Một số tác giả nghiên cứu bao gồm: Samuel (2012) nghiên cứu dưới khía cạnh văn hóa và tôn giáo cũng là một trong những nhân tố có ảnh hưởng đến quản trị RRTD, đặc biệt văn hóa tại các doanh nghiệp ở các vùng miền khác nhau cũng ảnh hưởng đến quyết định cấp tín dụng của các nhà quản trị [108].
Tại thị trường Việt Nam, nghiên cứu của Võ Thị Quý (2014), Nguyễn Quốc Anh (2015) đã đưa ra những kết luận về các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của hệ thống NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2009 – 2012 & giai đoạn 2005 – 2013 [29], [2]. Cụ thể, những nghiên cứu này về cơ bản cũng dựa trên các nhóm yếu tố tác động như tỷ lệ tăng trưởng GDP, tỷ lệ nợ xấu, rủi ro tín dụng phát sinh trong quá khứ và quy mô của các NHTM. Kết quả nghiên cứu đã có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn trong quản trị RRTD tại các NHTM ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu có hàm ý tốc độ tăng trưởng GDP giảm, tăng trưởng tín dụng, kết hợp với những khoản vay có chất lượng thấp trước đó sẽ làm gia tăng rủi ro tín dụng ở các NHTM. Bên cạnh đó đối với sự ảnh hưởng của quy mô NHTM cho thấy với ngân hàng có quy mô lớn có nguy cơ xuất hiện RRTD cao hơn các NHTM còn lại. Đối với nhân tố quy mô của ngân hàng, BIS (Ngân hàng thanh toán Quốc tế) (2007) đã công bố kết quả nghiên cứu đó là các NHTM có quy mô sẽ gặp nguy cơ rủi ro tín dụng cao vì họ không thể đa dạng hóa danh mục tín dụng như các NHTM lớn do hạn chế về nguồn vốn, khoảng cách địa lý (các ngân hàng nhỏ có xu hướng chỉ tập trung ở một số địa phương). Đây là căn cứ giúp những nhà nghiên cứu RRTD ở các NHTM Việt Nam có cái nhìn cụ thể chi tiết hơn về các nhân tố tác động đến quản trị RRTD.
Đối với những nghiên cứu sự tác động của các yếu tố trong và ngoài NHTM đến quản trị RRTD, các nhà nghiên cứu thông thường phối hợp phương pháp thu thập số liệu thứ cấp và phương pháp khảo sát, phỏng vấn, phân tích thông tin; với phương pháp phân tích các yếu tố ảnh hưởng, các tác giả sử dụng mô hình phân tích định định lượng với các giả định thay đổi yếu tố bên ngoài NHTM như: tăng trưởng
GDP, sự thay đổi trong chính sách tín dụng của Nhà nước,…các giả định biến động từ chính NHTM bao gồm: sự thay đổi trong chính sách tín dụng của ngân hàng, khả năng tài chính, quy mô ngân hàng, trình độ của cán bộ ngân hàng… Từ kết quả của mô hình nghiên cứu tại NHTM, các tác giả tìm ra những yếu tố có ảnh hưởng đến quản trị RRTD, đồng thời đo lường được những ảnh hưởng của các yếu tố này đến quản trị RRTD tại Ngân hàng.
1.4. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước
1.4.1. Những kết quả đạt được
Về phạm vi nghiên cứu: Nhìn chung hầu hết công trình nghiên cứu đều đã thực hiện hệ thống mô tả, phân tích về rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng và làm rõ vai trò cũng như sự cần thiết của việc quản trị RRTD trong hoạt động của các NHTM nói chung và tùy thuộc vào thực trạng quản trị RRTD tại từng NHTM cụ thể, các tác giả nghiên cứu về những tồn tại, hạn chế từ đó có những giải pháp phù hợp nhằm cải thiện hiệu quả công tác quản trị RRTD tại các NHTM. Phạm vi nghiên cứu của các đề tài đều rất cụ thể, rõ ràng và có hướng báo quát toàn bộ quá trình quản trị RRTD tại một ngân hàng.
Về phương pháp nghiên cứu: Các nghiên cứu đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu truyền thống và khoa học như: phương pháp tổng hợp, thống kê tài liệu thứ cấp và phương pháp phỏng vấn chuyên gia nhằm mục đích có thêm thông tin về mô hình quản trị RRTD, đề xuất ý kiến cải thiện nhằm nâng cao hiệu quả quản trị RRTD tại các NHTM thường được các tác giả sử dụng. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu có sử dụng các mô hình định lượng nhằm xác định được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới quản trị RRTD và tới công tác dự báo rủi ro tại các NHTM.
Về nội dung nghiên cứu: Những kết quả nghiên cứu là một trong những nguồn tài liệu, giúp người đọc có cái nhìn tổng thể, cơ bản, khách quan về công tác quản trị RRTD của các NHTM trong điều kiện thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Cụ thể một số công trình khoa học đã tiếp cận cả về lý luận và thực tiễn theo định hướng của hiệp ước Basel 2, thêm vào đó một vài nghiên cứu đã thực hiện theo hướng đo lường định lượng xác định được ảnh hưởng của các nhân tố tới rủi ro tín dụng của các NHTM. Đây là một trong những căn cứ khoa học vững chắc để đưa ra được những giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện những thiếu sót trong hệ thống quản trị rủi ro tín dụng hiện nay.
1.4.2. Những vấn đề đặt ra
Về nội dung quản trị RRTD:
Nhìn chung các nghiên cứu mặc dù đã tiếp cận quản trị rủi ro tín dụng theo hướng chuẩn quốc tế quy định hiện nay đang được áp dụng đó là hiệp ước Basel 2, tuy nhiên các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu lên nội dung của Basel 2, với đối tượng là các NHTM cụ thể nhiều nghiên cứu còn chưa đề cập đến thực tế các NHTM này đang đạt được ở mức độ nào so với chuẩn quốc tế hiệp ước Basel 2 quy định, tiến trình thực hiện áp dụng Basel 2 như thế nào, bên cạnh đó cũng chưa đưa ra được các NHTM còn thiếu sót điều gì so với quy định Basel 2 đồng thời cũng không đề cập đến sự khác biệt giữa quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng nghiên cứu có có điểm đặc trưng nào khi so với những NHTM còn lại trong hệ thống.
Nhiều công trình nghiên cứu rủi ro vẫn mang tính chất định tính, chưa chỉ ra được mô hình quản lý rủi ro, đo lường rủi ro, tổn thất ngân hàng phải gánh chịu khi rủi ro tín dụng xảy ra, chưa phản ánh được mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng, cũng không nêu lên được cách thức để xây dựng hệ thống theo dõi cơ cấu và chất lượng tổng thể các danh mục đầu tư, cấp tín dụng.
Lĩnh vực ngân hàng luôn có sự vận động thay đổi không ngừng, các sản phẩm dịch vụ mới ngày càng mở rộng, đa dạng phong phú do đó phần nào các công trình nghiên cứu trên đã bộc lộ những điểm cho phù hợp với xu thế phát triển của lĩnh vực ngân hàng ngày nay.
Các giải pháp được đề xuất trong các nghiên cứu có xu hướng gợi ý sự áp đặt mà chưa thực sự hướng tới tìm kiếm các giải pháp theo thực tế cụ thể hoạt động của từng ngân hàng dưới tác động thực tế là hoạt động kinh doanh hiện nay gặp rất nhiều khó khăn do sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng ngày càng gay gắt quyết liệt.
Về các nhân tố ảnh hưởng tới quản trị RRTD: Một số công trình nghiên cứu đã sử dụng phương pháp định lượng tuy nhiên rõ ràng là đối với các ngân hàng thương mại khác nhau thì đều có những đặc thù riêng, có chính sách tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng riêng, do đó những yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng ở mỗi ngân hàng sẽ khác nhau. Vì vậy, không thể có một kết quả chung về các tác động của những nhân tố đến rủi ro tín dụng cũng như quản trị rủi ro tín dụng tại NHTM.