toán, mà chỉ cần viết lệnh yêu cầu ngân hàng thanh toán thay cho mình. Hoặc cũng có thể khách hàng mang giấy (Séc, Uỷ nhiệm chi - UNC, do khách hàng khác ký phát) đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Việc cung cấp dịch vụ thanh toán này đã góp phần quan trọng trong việc tiết kiệm thời gian giao dịch cho cả ngân hàng lẫn khách hàng, giảm thiểu chi phí, đặc biệt là ngân hàng sẽ mở rộng mạng lưới của mình để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, một cách nhanh chóng và thuận tiện. Từ đó khuyến khích các doanh nghiệp, các cá nhân gửi tiền vào ngân hàng và sử dụng các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Do đó, một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch (demand deposit), giúp cho người gửi tiền viết Séc, uỷ nhiệm chi để thanh toán cho việc mua hàng hoá, dịch vụ. Việc đưa ra loại hình dịch vụ này được xem như là một trong những bước đi quan trọng nhất trong ngành công nghiệp ngân hàng.
d. Các hoạt động khác
- Quản lý ngân quỹ
Với chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp và nhiều cá nhân khác trong nền kinh tế, các ngân hàng sẽ mở các tài khoản và giữ tiền cho họ. Do đó mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng ngày càng chặt chẽ. Mặt khác ngân hàng rất có kinh nghiệm trong việc quản lý ngân quỹ cho nên họ đã cung cấp dịch vụ quản lý và đồng ý quản lý việc thu chi cho khách hàng nhất là doanh nghiệp và tiến hành sử dụng phần thặng dư tiền mặt tạm thời theo mục đích của ngân hàng cho đến khi khách hàng có nhu cầu rút tiền hoặc thanh toán .
- Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn
Do hoạt động của ngân hàng chủ yếu trên lĩnh vực tài chính tiền tệ, nên ngân hàng thường tập trung các danh mục đầu tư cũng như đội ngũ chuyên gia. Khi các cá nhân, các tổ chức, các doanh nghiệp có yêu cầu thì ngân hàng tiến hành tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, chia tách doanh nghiệp, về mua bán chứng khoán. Đồng thời ngân hàng cũng tiến hành quản lý tài sản hộ khách hàng, và trong nhiều trường hợp ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ uỷ thác cho khách hàng như uỷ thác đầu tư, uỷ thác phát hành, uỷ thác cho vay hộ.
- Cung cấp dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán
Do yêu cầu của sự cạnh tranh trong nền kinh tế, các ngân hàng thương mại ngày càng quan tâm tới việc cung cấp càng nhiều dịch vụ cho khách hàng càng tốt. Hiện nay hầu hết các ngân hàng thương mại đều cung cấp dịch vụ mua bán chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không nhờ tới các nhà kinh doanh chứng khoán . Nhiều ngân hàng hiện nay đã thành lập hẳn ra các công ty chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán.
Có thể bạn quan tâm!
- Huy động vốn tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - chi nhánh Thanh Oai - 1
- Huy động vốn tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - chi nhánh Thanh Oai - 2
- Cơ Sở Lý Luận Về Huy Động Vốn Tiền Gửi Tiết Kiệm Của Ngân Hàng Thương Mại
- Hoạt Động Huy Động Vốn Tiền Gửi Tiết Kiệm Của Ngân Hàng Thương
- Kinh Nghiệm Huy Động Vốn Tiền Gửi Tiết Kiệm Của Một Số Ngân Hàng Thương Mại Và Bài Học Rút Ra Cho Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt
- Khái Quát Về Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam - Chi Nhánh Thanh Oai.
Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.
- Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Trong nhiều năm trở lại đây, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng (chủ yếu là bảo hiểm tiền gửi, hoặc bảo hiểm tín dụng), điều này đảm bảo khả năng hoàn trả của khách hàng cho ngân hàng khi mà không may khách hàng gặp rủi ro ảnh hưởng tới tình mạng sức khoẻ, hay rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Cung cấp dịch vụ đại lí
Do nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan, một số ngân hàng chưa có điều kiện mở Chi nhánh, hay văn phòng đại diện tại vùng, hoặc quốc gia khác có quan hệ. Các ngân hàng thương mại lớn tiến hành cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lí cho các ngân hàng khác như, đại lý thanh toán hộ, đại lý phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối cho đồng tài trợ dự án... Ngoài ra một số ngân hàng thương mại còn cung cấp các dịch vụ khác như, dịch vụ hưu trí, dịch vụ quỹ hỗ trợ và trợ cấp... Điều này cho thấy xu hướng hoạt động đa năng của các ngân hàng thương mại ngày càng đa dạng, nhiều dịch vụ mới được đưa vào hoạt động kinh doanh.
mại
1.2. Hoạt động huy động vốn tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng thương
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động huy động vốn tiền gửi tiết kiệm của
ngân hàng thương mại
* Khái niệm
Huy động vốn tiền gửi tiết kiệm của NHTM là nguồn vốn mà ngân hàng huy động được trong nhóm đối tượng là dân cư, các cá nhân có tài khoản thanh toán, những khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn của khách hàng.
Bản chất của tiền gửi tiết kiệm là tài sản thuộc sở hữu của các đối tượng khách hàng khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử dụng nó để cho vay, chiết khấu, thanh toán…nhưng không có quyền sở hữu, ngân hàng có trách nhiệm phải hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút tiền để sử dụng. Tiền gửi tiết kiệm chiếm một tỷ trọng khá lớn trong nguồn vốn huy động của các Ngân hàng thương mại.
* Đặc điểm huy động vốn tiền gửi tiết kiệm
Thứ nhất, huy động vốn tiền gửi tiết kiệm thường được gửi với kỳ hạn ngắn.
Huy động vốn tiền gửi tiết kiệm bao gồm những khoản tiền gửi thanh toán của người dân, đây là những khoản tiền tiêu dùng hay kinh doanh, nó thường được luân chuyển từ tài khoản thanh toán này sang tài khoản thanh toán khác, từ ngân hàng này sang ngân hàng khác hoặc được rút tiền mặt để nhằm mục đích chi tiêu. Chính vì vậy khoản tiền này tồn tại rất ngắn trong tài khoản của khách hàng.
Đa số những khoản tiền gửi có kỳ hạn và những khoản tiền gửi tiết kiệm của cá nhân cũng thường được gửi với kỳ hạn nhỏ hơn 12 tháng. Với mục đích gửi tiền để tăng thêm thu nhập song khách hàng cá nhân không thể nắm bắt được sự thay đổi của nền kinh tế vĩ mô sẽ ảnh hưởng đến lãi suất, đến các kênh đầu tư khác và các chính sách tiền gửi của ngân hàng như thế nào. Chính vì vậy mà họ có xu hướng gửi tiền với kỳ hạn ngắn.
Tuy nhiên, do sự ổn định của nguồn vốn từ dân cư nên các khách hàng có nhu cầu tiết kiệm tiền sẽ để quay vòng sổ tiết kiệm khi đến hạn hoặc rút ra lấy lãi
tiết kiệm và gửi lại với kỳ hạn mới. Do vậy, huy động vốn tiền gửi tiết kiệm nhiều khi lại có kỳ hạn thực tế dài.
Thứ hai, huy động vốn tiền gửi tiết kiệm thường ổn định.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Ngân hàng thương mại sẽ huy động vốn từ những cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu với cam kết sẽ hoàn trả gốc lãi và chuyển vốn cho cá nhân, tổ chức đang tạm thời thâm hụt chi tiêu. Trong cùng một thời điểm ngân hàng thương mại sẽ thường xuyên có người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra, song tất cả người gửi tiền không rút tiền vào cùng một lúc nên theo quy luật số đông một ngân hàng luôn tồn tại một số dư thường xuyên tại mọi thời điểm. Do tính chất vô danh của tiền, ngân hàng thương mại có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách để chuyển cho cho những người đang có nhu cầu vốn. Do đặc điểm của khách hàng cá nhân là số lượng khách hàng rất lớn và mỗi khách hàng gửi một lượng tiền nhỏ hơn so với khách hàng doanh nghiệp và tổ chức nên sự ảnh hưởng của việc một khách hàng cá nhân rút tiền gửi tới tổng nguồn vốn huy động sẽ ít ảnh hưởng hơn nhiều so với việc một khách hàng tổ chức, doanh nghiệp rút tiền gửi. Ngoài ra, tiền gửi trong tài khoản thanh toán là khoản tiền gửi biến động phức tạp. Tuy nhiên, dân cư gửi tiền vào NHTM thường là tiết kiệm (tiền gửi có kỳ hạn). Với hình thức gửi này khách hàng sẽ thỏa thuận với ngân hàng về kỳ hạn và lãi suất gửi tiền. Trong những trường hợp cần thiết khách hàng vẫn có thể rút tiền trước thời hạn nhưng phần lớn khách hàng xác định được thời hạn gửi tiền của mình và chỉ rút tiền khi đáo hạn hoặc tiếp tục gửi lại khoản tiền đó tại ngân hàng. Chính vì vậy mà huy động vốn tiền gửi tiết kiệm có tính ổn định cao. Dựa vào đặc điểm này, các NHTM có thể huy động vốn tiền gửi tiết kiệm để cho vay trung và dài hạn, đây là một ưu thế của huy động vốn tiền gửi tiết kiệm.
Thứ ba, chi phí huy động vốn tiền gửi tiết kiệm cao.
Do đặc điểm ổn định và mục đích hưởng lãi của khách hàng nên chi phí huy động vốn tiền gửi tiết kiệm cao. Chi phí huy động vốn tiền gửi tiết kiệm bao gồm chi phí trả lãi và chi phí ngoài lãi. Chi phí trả lãi là lãi phải trả cho các loại tiền gửi
mà ngân hàng phát hành căn cứ theo lãi suất huy động ngân hàng và khách hàng đã có thỏa thuận. Chi phí ngoài lãi rất đa dạng, bao gồm các chi phí trả trực tiếp cho người gửi tiền như quà tặng, kèm bảo hiểm…, chi phí lương cho cán bộ nhân viên ngân hàng, chi phí tăng tiện ích cho người gửi tiền như: mở thêm chi nhánh, phòng giao dịch…
Thứ tư, huy động vốn tiền gửi tiết kiệm có quy mô lớn trong tổng nguồn vốn huy động của NHTM song phân tán theo lượng khách hàng.
Cơ cấu huy động vốn của NHTM gồm có huy động vốn từ các định chế tài chình, huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và huy động vốn từ dân cư. Chúng ta có thể thấy rằng: đa số người dân đều không thích rủi ro mạo hiểm, họ muốn bảo đảm an toàn cho nguồn tiền của mình đồng thời mong muốn nguồn tiền đó mang lại những khoản lãi nhất định. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các trung gian tài chính, thay vì giữ tiền trong két (vừa không đảm bảo yếu tố an toàn, vừa không sinh lời được) họ có thể đầu tư vào mua cổ phiếu công ty hoặc có thể gửi tiền vào ngân hàng. Nếu xem xét kỹ hơn, việc đầu tư vào mua cổ phiếu công ty có thể mang lại lợi nhuận cao nhưng lợi nhuận cao đồng nghĩa với rủi ro cao. Chính vì vậy, việc gửi tiền vào ngân hàng được xem là một giải pháp khả quan hơn hết. Do đó huy động vốn tiền gửi tiết kiệm của các NHTM có quy mô lớn trong tổng nguồn vốn huy động. Tuy nhiên nguồn vốn này lại phân tán theo số lượng khách hàng gửi tiền vì số lượng khách hàng là dân cư rất lớn.
1.2.2. Các hình thức huy động vốn tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng thương mại
Hiện nay các NHTM huy động nguồn vốn từ nhóm khách hàng cá nhân chủ yếu thông qua các sản phẩm tiền gửi. Những thuật ngữ “tiền gửi tiết kiệm” hay “tiền gửi khách hàng cá nhân” đều chung một bản chất để chỉ nghiệp vụ huy động vốn của NHTM (chia theo đối tượng huy động) từ tầng lớp dân chúng. Tiền gửi tiết kiệm là một phần thu nhập của khách hàng cá nhân chưa sử dụng đến, họ gửi tiền vào ngân hàng với mục đích tích lũy một cách an toàn và hưởng lãi. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm rất nhiều loại và có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau.
* Phân loại theo kỳ hạn
- Huy động vốn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn bao gồm: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tài khoản tiền gửi cá nhân.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là các khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào nhưng không được sử dụng các công cụ thanh toán. Tiền gửi này chủ yếu là tiền nhàn rỗi của khách hàng cá nhân, nhưng do nhu cầu chi tiêu không xác định được trước nên khách hàng chỉ gửi không kỳ hạn để hưởng lãi và đảm bảo an toàn cho tiền nhàn rỗi đó, chứ không có nhu cầu thanh toán qua ngân hàng, do đó chủ tài khoản có thể rút tiền bất cứ lúc nào mà không cần báo trước. Số dư tài khoản này thường không lớn, ưu điểm hơn tài khoản tiền gửi giao dịch là số dư ít biến động hơn nhưng ngân hàng phải trả lãi suất cao hơn tiền gửi thanh toán.
Tài khoản thanh toán cá nhân là loại tài khoản mà chủ tài khoản có toàn quyền sử dụng số tiền trong phạm vi số dư. Cụ thể, họ có thể rút tiền tại quầy giao dịch hoặc máy giao dịch tự động, có thể thực hiện thanh toán qua ngân hàng . Về phía khách hàng, họ phải tuân thủ các quy định và hướng dẫn của ngân hàng trong quá trình thực hiện thanh toán. Về phía ngân hàng, phải thực hiện trích tài khoản thanh toán theo yêu cầu của khách hàng, chỉ được từ chối thanh toán trong trường hợp số tiền thanh toán vượt quá số dư của tài khoản hoặc giấy tờ thanh toán không đúng yêu cầu.
- Huy động vốn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn chủ yếu là tiền nhàn rỗi của khách hàng cá nhân và do nhu cầu chi tiêu được xác định trước, có kế hoạch nên khách hàng gửi vào ngân hàng với mục đích chính là để hưởng lãi.
Nguyên tắc của loại tiền gửi này là một khi khách hàng đã gửi tiền vào họ sẽ không rút tiền ra (cả gốc và lãi) trừ khi đã hết hạn gửi tiền. Tuy nhiên do yếu tố cạnh tranh thu hút tiền gửi, một số ngân hàng vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước hạn, đồng thời để hạn chế việc khách hàng rút tiền trước hạn, ngân hàng thực hiện việc khấu trừ một phần lãi mà khách hàng được hưởng có thể ngân hàng không chấp nhận trả lãi cho một số tháng nào đó hoặc có thể khách hàng chỉ được hưởng
mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cho thời gian gửi tiền, hoặc có thể khách hàng dược trả lãi phù hợp với thời gian gửi thực tế.
Loại tiền gửi này thường được hưởng lãi suất cố định và phụ thuộc vào kỳ hạn, kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Tiền gửi có kỳ hạn còn được chia nhỏ hơn thành tiền gửi có kỳ hạn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Do tính ổn định cao hơn nên tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi cao hơn tiền gửi không kỳ hạn và ngân hàng dùng để phục vụ cho hoạt động cấp tín dụng.
* Phân loại theo loại tiền tệ
Tiền gửi nội tệ: Là các khoản tiền gửi bằng đồng Việt Nam, loại tiết kiệm này được hưởng lãi suất cao và thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tiền gửi của ngân hàng.
Tiền gửi ngoại tệ: Người dân có thể gửi tiền vào ngân hàng bằng các loại ngoại tệ tự do chuyển đổi như USD, EUR. Do tính ổn định của ngoại tệ so với nội tệ và do tâm lý của người dân nên số tiền gửi bằng ngoại tệ có xu hướng tăng lên trong khi người vay lại e ngại vay ngoại tệ. Chính vì vậy, nhiều ngân hàng áp dụng phân biệt lãi suất cho nội tệ và ngoại tệ theo hướng lãi suất của ngoại tệ thấp hơn lãi suất nội tệ. Ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, lãi suất tiền gửi USD đã được NHNN quy định ở mức 0%, các loại ngoại tệ khác không quy định cụ thể nhưng đang được các NHTM áp dụng ở mức thấp.
* Phân loại theo phương thức trả gốc và lãi
- Huy động vốn tiền gửi tiết kiệm trả lãi sau: Là hình thức tiết kiệm trả lãi khi đáo hạn. Vào thời điểm đáo hạn nếu khách hàng không đến rút vốn và lãi được nhập vào gốc và tự động chuyển sang kỳ hạn mới tương ứng.
- Huy động vốn tiền gửi tiết kiệm trả lãi trước: Là hình thức tiết kiệm trả lãi ngay khi ngân hàng gửi tiền. Khi đến hạn khách hàng sẽ được lĩnh phần gốc đúng như số tiền ghi trên thẻ hoặc sổ tiết kiệm.
- Huy động vốn tiền gửi tiết kiệm trả lãi định kỳ: Là hình thức tiết kiệm trả lãi theo từng kỳ hạn (có thể định kỳ hàng tháng, hàng quý, 6 tháng 1 lần…) mà khách hàng và ngân hàng đã thỏa thuận. Đến kỳ tính lãi, khách hàng có thể rút phần
lãi của kỳ đã đăng ký vào bất kỳ ngày làm việc nào của ngân hàng. Nếu khách hàng không lĩnh lãi theo kỳ hạn đã đăng ký thì ngân hàng chỉ thực hiện sao kê tính lãi, hết kỳ tính lãi cuối cùng thì số lãi còn chưa lĩnh có thể được nhập vào gốc.
* Phân loại theo phương thức nộp gốc
- Huy động vốn tiền gửi tiết kiệm một lần: Là loại hình tiết kiệm mà khách hàng chỉ gửi tiền vào ngân hàng một lần và từ thời điểm đó đến khi đáo hạn. Với hình thức này ngân hàng không tốn nhiều chi phí quản lý do số dư tài khoản của khách hàng không biến động, do đó mức lãi suất của loại này cao.
- Huy động vốn tiền gửi tiết kiệm gửi nhiều lần: Tiết kiệm gửi nhiều lần hay tiết kiệm gửi góp là hình thức tiết kiệm mà định kỳ đã đăng ký với ngân hàng, khách hàng gửi vào ngân hàng một số tiền, số tiền gửi từng lần có thể là cố định hoặc thay đổi theo khả năng của khách hàng. Lãi suất của loại tiền này thấp hơn lãi suất tiết kiệm thông thường và ngoài việc phụ thuộc vào kỳ hạn gửi tiền thì lãi suất tiết kiệm gửi góp còn phụ thuộc vào khoảng cách giữa hai lần gửi, khoảng cách này càng nhỏ thì lãi suất càng cao.
1.2.3. Vai trò của hoạt động huy động vốn tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng thương mại.
Hoạt động huy động vốn từ tiền gửi tiết kiệm có vai trò rất quan trọng không chỉ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà còn đối với cả khách hàng và xã hội.
* Đối với ngân hàng
Nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng vì nó là nguồn chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế. Do vậy, hoạt động huy động vốn nói chung và huy động vốn từ tiền gửi tiết kiệm nói riêng góp phần mang lại nguồn vốn cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Có thể nói, hoạt động huy động vốn từ tiền gửi tiết kiệm đã góp phần giải quyết “đầu vào” của NHTM. Hoạt động huy động vốn tiền gửi tiết kiệm có mối quan hệ biện chứng đối với các mảng hoạt động khác như: