SG Bank
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng và có được sự tăng trưởng vượt bậc, trong đó phải kể đến sự lớn mạnh của ngành ngân hàng tài chính Việt Nam. Chúng ta chứng kiến sự bùng nổ của các ngân hàng ngoài quốc doanh, đặc biệt là những ngân hàng thương mại cổ phần. Các ngân hàng này không ngừng nỗ lực đa dạng hoá và cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiện ích cho người dân, trong đó có sản phẩm dịch vụ thẻ ngân hàng. Có thể nói sự lớn mạnh của các ngân hàng Việt Nam và sự có mặt của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đã là thay đổi thói quen thanh toán của người dân. Thay vì phải cầm một số lượng tiền mặt lớn khi tiêu dùng hàng hoá dịch vụ, giờ đây nhiều người dân có thể mang theo mình những chiếc thẻ nhỏ gọn, tiện ích và thông minh. Mặt khác việc sử dụng thẻ cũng tác động đến nền kinh tế và xã hội, khiến cho xã hội văn minh và hiện đại hơn. Tuy nhiên, mặc dù các ngân hàng không ngừng tung ra các sản phẩm thẻ ngân hàng nhưng số lượng người dân biết đến thẻ, nhận thức được những tiện ích của thẻ và sử dụng nó hiện còn quá khiêm tốn so với qui mô dân số và qui mô thị trường. Vì vậy trong tương lai để sản phẩm thẻ đến được với nhiều đối tượng khách hàng, không chỉ giới hạn những khách hàng sống ở các đô thị lớn mà còn cả những khách hàng tiềm năng tại các địa bàn khác, các ngân hàng cần phải xây dựng và có những giải pháp để thúc đẩy Marketing thẻ trong đời sống một cách hiệu quả. Nhận thấy đây là một đề tài hay nhưng cũng khó khăn và phức tạp song lại có ý nghĩa về cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài : "Những giải pháp nâng cao hoạt động Marketing thẻ của ngân hàng ngoài quốc doanh Việt Nam”.
2. Mục đích của đề tài.
- Tìm hiểu và nghiên cứu về thẻ ngân hàng và những ứng dụng của Marketing đối với việc phát triển dịch vụ thẻ ngân hàng
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng của thị trường thẻ Việt Nam và hoạt động Marketing thẻ tại ngân hàng ngoài quốc doanh Việt Nam thông qua việc nghiên cứu. điển hình tại Ngân hàng Quốc tế Việt Nam.
- Tổng kết những khó khăn và tồn tại cũng như dựa vào định hướng phát triển của ngân hàng ngoài quốc doanh để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hoạt động Marketing thẻ ngân hàng nhằm phát triển hoạt động kinh doanh thẻ của ngân hàng ngoài quốc doanh Việt Nam
3. Phương pháp nghiên cứu
Có thể bạn quan tâm!
- Những giải pháp nâng cao hoạt động marketing thẻ của ngân hàng ngoài quốc doanh Việt Nam - 1
- Những giải pháp nâng cao hoạt động marketing thẻ của ngân hàng ngoài quốc doanh Việt Nam - 2
- Marketing Trở Thành Cầu Nối Gắn Kết Hoạt Động Của Ngân Hàng Với Thị Trường
- Marketing Phụ Thuộc Chủ Yếu Vào Yếu Tố Con Người.
- Marketing Trở Thành Công Cụ Đáp Ứng Tốt Nhất Nhu Cầu Thị Trường Thẻ Và Nâng Cao Khả Năng Cạnh Tranh Dịch Vụ Thẻ Của Nhtm
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
Khoá luận này dựa trên cơ sở phân tích tình hình thực tế kết hợp với lý thuyết kinh tế đã tiếp thu tại nhà trường, đồng thời sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh và phân tích để đạt được mục đích của đề tài nêu trên
4. Giới hạn đề tài
Do phạm vi đề tài là những giải pháp nâng cao hoạt động Marketing thẻ của ngân hàng ngoài quốc doanh Việt Nam khá rộng và cũng do thời gian có hạn, và bản thân em còn nhiều hạn chế về mặt kiến thức chuyên môn nên em đã chọn Ngân hàng Quốc Tế Việt Nam là một ngân hàng mẫu để nghiên cứu hoạt động Marketing thẻ. Đây là một ngân hàng đã hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng tài chính được 10 năm, thực sự vẫn là một ngân hàng còn rất non trẻ và còn nhiều khó khăn trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thẻ ngân hàng. Em hi vọng với việc nghiên cứu điển hình tại Ngân hàng Quốc Tế Việt Nam và những giải pháp em đưa ra dù không phản ánh toàn bộ hoạt động của các ngân hàng ngoài quốc doanh những có thể đóng góp phần nào cho việc đẩy mạnh hoạt động Marketing thẻ tại Ngân hàng Quốc Tế Việt Nam nói riêng và ngân hàng ngoài quốc doanh nói chung
5. Kết cấu khoá luận
Nội dung chính của khoá luận được thể hiện ở 3 chương:
Chương I: Tổng quan về thẻ ngân hàng và Marketing thẻ ngân hàng
Chương II: Thực trạng sử dụng Marketing thẻ tại ngân hàng ngoài quốc doanh Việt Nam (Nghiên cứu điển hình tại Ngân hàng Quốc Tế Việt Nam)
Chương III: Giải pháp nâng cao hoạt động Marketing thẻ của ngân hàng ngoài quốc doanh Việt Nam.
Đây là một đề tài khó và tương đối mới, mặt khác những do thời gian và kiến thức còn hạn chế, em không có tham vọng đề cập được đầy đủ và toàn diện và chắc chắn trong luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót vì vậy em rất mong nhận được sự thông cảm và đóng góp từ các thầy cô.
Em xin gửi lời cám ơn chân thành đến cô giáo-Thạc sĩ Đặng Thị Lan đã tận tình hướng dẫn em trong thời gian qua và đồng thời em xin gửi lời cám ơn đến tất cả các thầy các cô đã truyền thụ cho em những kiến thức trong suốt thời gian học tập tại trường để em có thể hoàn thành khoá luận này.
Hà Nội ngày 22 tháng 10 năm 2007
Sinh viên
Ngô Thị Mai Hương
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ THẺ NGÂN HÀNG VÀ MARKETING THẺ NGÂN HÀNG
I. TỔNG QUAN VỀ THẺ NGÂN HÀNG
1. Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ ngân hàng
Thẻ ngân hàng là một phương tiện thanh toán thông dụng và văn minh trên thế giới. Thẻ được ghi nhận la ra đời năm 1914 do một công ty của Mỹ là Western Union cung cấp một dịch vụ thanh toán theo nhu cầu của khách hàng, theo đó công ty này phát hành một tấm thẻ bằng kim loại với một số thông tin được in nổi để đảm bảo hai chức năng chính:
- Nhận dạng được khách hàng
- Có thể lưu giữ được các thông tin in nổi trên tấm kim loại
Chính vì thấy được sự tiện ích từ thẻ Western Union, công ty General Petroleum của Mỹ cũng đã phát hành thẻ xăng dầu đầu tiên vào năm 1924, theo đó cho phép các khách hàng của công ty này có thể mua xăng dầu tại các cửa hàng bán xăng dầu của công ty trên toàn nước Mỹ [25]. Như vậy có thể nói những tấm thẻ kim loại này là nền tảng cho sự ra đời của thẻ nhựa sau này
Tấm thẻ nhựa đầu tiên ra đời năm 1949 do ông Frank Mc Namara, một doanh nhân người Mỹ sang chế mang tên “ Diners club”. Thẻ Diners Club là thẻ du lịch và giải trí do tổ chức tự phát hành. Đến năm 1951, doanh thu của loại thẻ này đạt hơn 1 triệu dollars và số lượng thẻ ngày càng tăng lên. Vào năm 1960 nó là thẻ đầu tiên có mặt tại Nhật. Công ty Diners Club đã thành công trong việc cung ứng dịch vụ thẻ [25]
Theo sau Diners club, năm 1955, hàng loạt thẻ mới ra đời như: Trip charge và Golden Key, Gourmet Club, Esquire Club; đến năm 1958, Carte Blanche và American Express ra đời thống lĩnh thị trường [25]. Phần lớn các thẻ chỉ dành cho giới doanh nhân nhưng sau đó các ngân hàng đã nhận thấy rằng giới bình dân mới là đối tượng sử dụng thẻ chủ yếu trong tương lai.
Tuy nhiên để hình thức thanh toán thẻ có thể thu hút được khách hàng cần phải có một mạng lưới thanh toán lớn, không chỉ trong phạm vi một địa phương, một quốc gia mà trên phạm vi toàn cầu. Đứng trước đòi hỏi đó, Interbank (MasterCharge) và Bank of America ( Bank Americard) đã xây dựng một hệ thống các qui tắc, tiêu chuẩn xử lý, thanh toán thẻ toàn cầu. Năm 1977, Bank Americard trở thành VISA USA và sau đó trở thành tổ chức thẻ quốc tế VISA. Năm 1979, Mastercharge cũng trở thành một tổ chức thẻ quốc tế lớn khác là MASTERCARD [32].
Vào cuối những năm 1950, một số ngân hàng của Mỹ đã tiến hành cung ứng dịch vụ thẻ tín dụng theo cơ chế tín dụng tuần hoàn. Người phát hành thành công nhất trong số đó là Bank of American, năm 1960 ngân hàng này đã đưa ra các loại thẻ xanh, trắng và vàng với tên gọi Bank Americard. Ngân hàng BarclayCard là ngân hàng hải ngoại đầu tiên được phát hành BankAmericard và đồng thời nó cũng là ngân hàng đầu tiên tại Anh phát hành thẻ riêng có tên là BarclayCard vào năm 1996. Sự thành công của ngân hàng Barclays đã thúc giục ba ngân hàng lớn khác là British Bank, Nat West Bank, Lloyds Bank và Midland Bank, cùng với ngân hàng Royal Bank of Scotland thiết lập một liên doanh có tên Joint Credit Card Company (JCCC) năm 1972 [32]. JCCC đã tiến hành các hoạt động Marketing và tiến hành phát hành thẻ cạnh tranh với BarclayCard đều tuân theo khung luật quốc tế.
Vào cuối những năm 70, thẻ Access hội nhập với thẻ MasterCard còn Barclaycard hội nhập với thẻ Visa [32]. Những hiệp hội quốc tế này hoạt động theo cơ chế từng nhóm ngân hàng với các chi nhánh phát hành thẻ được phép sử dụng trên phạm vi toàn cầu.
Ngày nay cùng với sự phát triển của 2 tổ chức thẻ quốc tế là Visa và Master Card còn có hàng loạt các tổ chức thẻ khác mang tính chất quốc tế và khu vực ra đời như: JCB Card, American Express Card, Airplus, Maestro eurocard, Visioncard. Sự phát triển mạnh mẽ này đã phản ánh xu hướng phát triển tất yếu của dịch vụ thẻ.
2. Mô tả và phân loại thẻ ngân hàng
2.1. Khái niệm thẻ ngân hàng
Thẻ ngân hàng là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng phát hành cho khách hàng, theo đó người sử dụng thẻ có thể dùng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) hay rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán thẻ, hoặc tại các máy rút tiền tự động ATM [25]
2.2. Mô tả thẻ về mặt kỹ thuật
Hầu hết các loại thẻ quốc tế hiện nay làm bằng nhựa ABS hoặc PC cấu tạo với 3 lớp được ép với kỹ thuật cao.
Thẻ có 3 kích thước: 84mm x 54mm x 0.76mm có góc tròn gồm hai mặt
Mặt trước của thẻ gồm:
- Nhãn hiệu thương mại của thẻ
- Tên và logo của ngân hàng phát hành thẻ
- Số thẻ, tên chủ thẻ được in nổi.
Mặt sau của thẻ gồm:
- Dải băng từ chứa các thông tin đã được mã hoá theo một chuẩn thống nhất như: số thẻ, ngày hết hạn, các yếu tố kiểm tra an toàn khác.
- Ô chữ ký dành cho chủ thẻ: Nếu ô chữ ký bị bỏ trống, không có chữ ký mẫu của người sử dụng thẻ thì cơ sở chấp nhận thẻ phải so sánh với chữ ký trong hộ chiếu của khách hàng.
2.3. Phân loại thẻ ngân hàng
Hiện nay có rất nhiều các loại thẻ đã và đang được phát hành, theo đó có nhiều cách phân loại khác nhau. Nhưng chủ yếu có bốn cách phân loại chính: phân loại theo đặc tính kỹ thuật, tính chất thanh toán của thẻ, phạm vi sử dụng và hạn mức của thẻ.
2.3.1. Theo đặc tính kỹ thuật
- Thẻ băng từ (Magnetic Stripe) : được sản xuất dựa trên kĩ thuật từ tính với một băng từ chứa hai rãnh thông tin ở mặt sau của thẻ[25]. Thẻ này được sử dụng phổ biến trong 20 năm nay .
- Thẻ điện tử có bộ xử lí chip ( thẻ thông minh): là thế hệ mới nhất của thẻ thanh toán, thẻ thông minh dựa trên kĩ thuật xử lí tin học nhờ gắn vào thẻ một
“chip” điện tử có cấu trúc giống như một máy tính hoàn hảo [25]. Thẻ thông minh có nhiều nhóm với dung lượng nhớ của chip điện tử khác nhau.
2.3.2. Phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ
- Thẻ ghi nợ (Debit card): là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn liền với tài khoản tiền gửi của chủ thẻ.. Loại thẻ này khi mua hàng hoá dịch vụ, giá trị hàng giao dịch sẽ được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ và đồng thời ghi “có” ( chuyển ngân ngay) vào tài khoản của cửa hàng đó.
- Thẻ tín dụng (Credit Card): đây là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất, theo đó chủ thẻ được phép sử dụng một hạn mức tín dụng qui định không phải trả lãi ( nếu chủ thẻ hoàn trả số tiền đã sử dụng đúng kì hạn) để mua sắm hàng hoá, dịch vụ tại những điểm chấp nhận thẻ này[25] Thẻ tín dụng là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt cho phép người sử dụng khả năng chi tiêu trước trả tiền sau.
2.3.3. Phân loại theo phạm vi sử dụng thẻ
- Thẻ dùng trong nước có hai loại:
+ Local use only card là loại thẻ do tổ chức tài chính hoặc ngân hàng trong nước phát hành dùng nội bộ trong tổ chức đó mà thôi.
+ Domestic use only card là thẻ thanh toán mang thương hiệu của tổ chức thẻ quốc tế được phát hành sử dụng trong nước.[25]
- Thẻ quốc tế ( international card): là loại thẻ không chỉ dùng tại một quốc gia mà nó được dùng trên phạm vi quốc tế[25]. Muốn phát hành loại thẻ này thì phải là thành viên của tổ chức thẻ quốc tế.
2.3.4. Phân loại theo hạn mức của thẻ
- Thẻ chuẩn (Standard Card) là một loại thẻ tín dụng được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới và mang tính phổ biến rất cao. Loại thẻ này thường có hạn mức tín dụng thấp dành cho những người có mức thu nhập trung bình và khá.
- Thẻ vàng (Gold Card): là loại thẻ ưu hang phù hợp với mức sống và nhu cầu tài chính của khách hang có thu nhập cao. Thẻ được phát hành cho những đối tượng có uy tín, có khả năng tài chính lành mạnh và có nhu cầu chi tiêu lớn. Điểm khác biệt giữa thẻ vàng và thẻ thường là có hạn mức tín dụng lớn hơn.