vào diện tích đất trống, phát bỏ các diện tích tre, nứa ở phía chân rừng giáp ranh với khu vực chuồng trại, nhà ở để trồng Keo hay trồng các loài cây khác như Cồng, Mỡ…Bên cạnh đó, công tác quản lý bảo vệ rừng được các hộ gia đình quan tâm và chú trọng nhiều hơn. Việc liên kết thành nhóm hộ gia đình để cùng phối kết hợp với các hộ khác trong thôn, với cấp chính quyền, ban ngành địa phương trong công tác thực thi các chính sách, các quy định liên quan đến rừng cũng được thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc.
Năm 2004 Chính phủ ban hành Nghị định số 181/2004/NĐ-CP về thi hành Luật đất đai. Nghị định này ra đời thay thế Nghị định163/NĐ-CP và một số nghị định khác. Đến năm 2009 trong thôn Khe Năm đã có thêm 65 hộ được giao đất lâm nghiệp với tổng diện tích 249,91ha theo Nghị định 181/2004/NĐ-CP. Phần lớn diện tích này là các diện tích rừng nghèo kiệt sau khai thác do Lâm trường Hương Sơn quản lý bảo vệ. Sau khi được giao đất, giao rừng một số hộ đã tiến hành trồng dặm cây bản địa, một số hộ để tái sinh tự nhiên và một số hộ khác trồng Keo. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu không cho phép và đây là phần diện tích đất lâm nghiệp mới giao từ năm 2009 cho các hộ nên chưa có nhiều biến động về trữ lượng rừng vì vậy, tác giả không tiến hành nghiên sâu mà chỉ tập trung vào phần đất lâm nghiệp giao cho các hộ gia đình từ năm 2002 theo Nghị định 163/NĐ-CP.
3.3. Trạng thái và chất lượng rừng giao cho 15 hộ gia đình theo Nghị định 163/NĐ-CP.
3.3.1. Thời điểm năm 2002
Tại thời điểm giao có 15 hộ tại thôn Khe Năm được giao đất lâm nghiệp theo Nghị định 163/NĐ-CP với tổng diện tích là 90,12ha nằm gọn trong tiểu khu 51 với thời hạn giao quản lý bảo vệ là 50 năm. Trong quá trình giao đất lâm nghiệp các hộ tự xác định ranh giới các diện tích rừng mà hộ gia đình đang quản lý, bảo vệ, tự giải quyết các xung đột, vướng mắc. Bên cạnh đó được sự hỗ trợ, tư vấn tổ chức của chính quyền huyện Hương Sơn, xã Sơn Kim và Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Năng lực Phụ nữ Dân tộc (TEW) nên quá trình giao đất gắn với giao rừng tại thôn Khe Năm diễn ra nhanh và thuận lợi.
Một yếu tố có ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến hiệu quả của hoạt động GĐGR thôn Khe Năm, đó là phần lớn diện tích đất lâm nghiệp giao năm 2002 đều nằm trong diện tích mà các hộ đã tự khoanh nuôi, bảo vệ theo hướng tự phát trước đó (trước cả Quyết định 327/CT năm 1992) vì vậy, diện tích và trạng thái đất lâm nghiệp khi giao cho các hộ có sự chênh lệch và khác nhau khá lớn. Có những hộ được giao diện tích đất lâm nghiệp khá nhiều ngược lại có những hộ lại được giao rất ít. Bên cạnh đó trạng thái đất lâm nghiệp có rừng khi giao giữa các hộ cũng khác nhau có những hộ được giao rừng trạng thái là IA, IB là đất trảng cỏ, cây bụi nhưng có những hộ ở trạng thái IIB, IIIA1 + N là trạng thái rừng trung bình hay có nhiều cây gỗ. Điển hình hộ được giao nhiều nhất là hộ Ông Trần Ngọc Lâm với tổng diện tích đất lâm nghiệp được giao là 23,8ha, trong khi hộ gia đình Ông Phạm Quang Đề chỉ được nhận 0,12ha. Diện tích đất lâm nghiệp khi giao cho các hộ gia đình dựa vào thực trạng đất, rừng hộ gia đình đang quản lý theo Quyết định 327/QĐ-CP.
Do diện tích đất lâm nghiệp giao cho các hộ chênh lệch như vậy đã tác động không nhỏ đến phương thức quản lý, bảo vệ và phát triển rừng từng hộ gia đình. Với những hộ gia đình có nhiều đất rừng họ có thể phân chia thành các khu vực khác nhau để khoanh nuôi, bảo vệ như khu vực rừng tái sinh, khu vực rừng trồng, bãi chăn thả… còn đối với những hộ gia đình có diện tích rừng nhỏ thì sự lựa chọn ít hơn trong việc phát triển mô hình kinh tế rừng, như hộ gia đình Ông Đề chỉ khoanh nuôi để thả Gà, trồng Chè và trồng một ít cây Keo.
Trạng thái rừng khi giao cho các hộ gia đình cũng rất khác nhau và tập trung ở 8 trạng thái như IA, IIA, IIIA1+ Nứa, NIIA, IB, IIB, Keo II và Mỡ II. Có những hộ gia đình có tới 5 trạng thái rừng, như hộ gia đình Bà Nguyễn Thị Đào, Nguyễn Thị Thìn nhưng cũng có hộ gia đình chỉ có 1 trạng thái rừng duy nhất, như hộ gia đình Bà Nguyễn Thị Hường, Trần Thị Huy. Tại thời điểm giao đất giao rừng năm 2002, một số hộ đã bắt đầu tác động vào các diện tích rừng mình đang quản lý, bảo vệ bằng cách trồng bổ sung cây bản địa và một số cây lâm nghiệp ngắn ngày như cây Keo.
Bảng 3.1: Danh sách, diện tích, loại đất lâm nghiệp khi giao cho các hộ thôn Khe Năm năm 2002
Tên hộ | Diện tích (m2) | Loại đất lâm nghiệp | Chú thích ký hiệu | |
1 | Nguyễn Thị Đào/Nguyễn Ngọc Lâm | 238,800 | IIA, IB, NIIA, IIIA1 + Nứa, Keo II | - IA: Đất trảng cỏ |
2 | Lê Thị Hiền/Lưu Trọng Mỵ | 78,800 | IIA, IIIA1 + Nứa, Keo II | - IIA: Rừng phục hồi sau |
3 | Hà Thị Xuân/Nguyễn Trọng Hiệp | 14,000 | IIB | nương rẫy, đặc trưng bởi lớp cây tiên phong ưa |
4 | Trần Thị Nga/Nguyễn Công Tuân | 99,600 | IIA, IIIA1 + Nứa, Keo II | sáng, mọc nhanh đều tuổi. |
5 | Bùi Thị Hương/Lưu Trọng Bắc | 2,800 | IIA, Keo II | - IIIA1+Nứa: Rừng bị khai |
6 | Phạm Thị Thanh/Lê Hồng Cư | 89,600 | IIA, IIIA1 + Nứa, NIIA, Keo II | thác kiệt quệ, còn sót lại 1 số cây to nhưng phẩm chất |
7 | Nguyễn Thị Thìn/Nguyễn Minh Lợi | 112,400 | IIA, IB, IIIA1+Nứa, NIIA, Keo II | xấu, nhiều tre, nứa. |
8 | Nguyễn Thị Loan/Nguyễn Thanh Vinh | 23,600 | IIB | - IB: Đất cây bụi. |
9 | Trần Thị Xanh/Phạm Quang Đề | 1,200 | IIB | - IIB: Rừng non phục hồi |
10 | Nguyễn Thị Hương/Nguyễn Văn Hồng | 108,000 | IA, IIA,, NIIA, Keo II | trên trảng cây bụi (sau khai |
11 | Đinh Thị Lựu/Nguyễn Sỹ Bé | 21,600 | IA, Mỡ II | thác kiệt) mật độ cây gỗ > 1000 cây/ha, với đường |
12 | Phạm Thị Hòe/Nguyễn Mạnh Hà | 50,800 | IIA, Keo II | kính > 10 cm. |
13 | Nguyễn Thị Hường/Nguyễn Phi Khanh | 12,000 | IIA | - NIIA: Phục hồi sau khai thác có nhiều nứa. |
14 | Trần Thị Huy/Nguyễn Phùng Chín | 11,200 | IIA | - Keo II: Đất trồng Keo 2 |
15 | Nguyễn Thị Lan/Đào Văn Hạnh | 36,800 | IIA, IB | tuổi. |
Tổng : 15 hộ | 901,200 | 90,12 ha | - Mỡ II: Đất trồng Mỡ 2 tuổi. |
Có thể bạn quan tâm!
- Địa Điểm, Thời Gian Và Đối Tượng Nghiên Cứu
- Đối Tượng Nghiên Cứu Và Phạm Vi Nghiên Cứu Đối Tượng Nghiên Cứu:
- Vai Trò Của Rừng Và Quá Trình Hình Thành, Phát Triển Rừng Thôn Khe Năm Qua Các Giai Đoạn
- Diện Tích Và Tỷ Lệ % Các Loại Đất Lâm Nghiệp Năm 2013
- Ông Trần Ngọc Quang Đứng Cạnh Cây Lim Tái Sinh Sau 35 Năm
- Tỷ Lệ Thu Nhập Từ Lương Và Lương Hưu Của 15 Hộ Gia Đình
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
(Nguồn: Sổ mục kê địa chính xã Sơn Kim 1, 2013)
Bảng 3.2: Bảng liệt kê chi tiết loại đất lâm nghiệp giao cho các hộ gia đình năm 2002
Trạng thái | Diện tích (m2) | Chú thích | |
1 | IA | 27,200 | Đất trảng cỏ |
2 | IIA | 312,400 | Rừng phục hồi sau nương rẫy, đặc trưng bởi lớp cây tiên phong ưa sáng, mọc nhanh đều tuổi |
3 | IIIA1 - Nứa | 231,600 | Rừng bị khai thác kiệt quệ, còn sót lại 1 số cây to nhưng phẩm chất xấu, xen lẫn tre nứa (là rừng có cây gỗ chiếm > 50% độ tàn che) |
4 | IB | 58,400 | Đất cây bụi |
5 | IIB | 38,800 | Rừng non phục hồi trên trảng cây bụi (sau khai thác kiệt) mật độ cây gỗ> 1000 cây/ha, với đường kính > 10 cm |
6 | NIIA | 150,800 | Phục hồi sau khai thác (có nứa nhiều hơn gỗ, là rừng có cây tre nứa chiếm > 50% độ tàn che) |
7 | Keo II | 74,400 | Đất trồng Keo 2 tuổi |
8 | Mỡ II | 7,600 | Đất trồng mỡ 2 tuổi |
Tổng | 901,200 |
36
(Nguồn LISO: Tổng hợp các loại đất lâm nghiệp thôn Khe Năm, 2013)
Hình 3.2: Diện tích và tỷ lệ % các diện tích đất lâm nghiệp giao cho 15 hộ năm 2002
Thông qua 02 biểu đồ trạng thái rừng và tỷ lệ các loại đất lâm nghiệp giao cho 15 hộ gia đình thôn Khe Năm, năm 2002 theo Nghị định 163/NĐ-CP thì trạng thái IIA mọc nhanh đều tuổi chiếm nhiều nhất với 35%, trạng thái rừng IIIA1 + Nứa đứng thứ 2 với 26%. Hai trạng thái rừng Keo II + Mỡ II và IA chiếm ít nhất với tỷ lệ 1% và 3%. Trạng thái rừng trung bình (IIB) chiếm 4% tổng diện tích được giao 2002. Với tỷ lệ 61% hai trạng thái rừng IIA và IIIA1 + N chiếm diện tích nhiều nhất khi giao. Theo chia sẻ của người dân và trên bản đồ hiện trạng rừng, hai trạng thái IIA và IIIA1 + N này nằm ở khu vực từ giữa đồi lên đến đỉnh đồi của các hộ gia đình và nếu bảo vệ và phát triển tốt chắc chắn khu vực này rừng sẽ phục hồi và phát triển rất nhanh.
Tỷ lệ phân bố trạng thái rừng trên hoàn toàn phù hợp bởi trước đó việc khai thác rừng tại khu vực nghiên cứu diễn ra rất mạnh với xu hướng khai thác trắng trước khi giao lại cho các hộ gia đình quản lý bảo vệ theo Quyết định 327/CT. Cũng chính vì thế mà trạng thái IIA chiếm tỷ lệ nhiều nhất sau khi rừng được bàn giao cho các hộ gia đình.
3.3.2. Thời điểm năm 2013
Sau 11 năm chính thức quản lý, bảo vệ và phát triển rừng thôn Khe Năm có rất nhiều thay đổi dựa trên những tác động hợp lý của chủ hộ gia đình lên diện tích đất, rừng được giao quản lý, bảo vệ. Theo số liệu thu thập của tác giả cho thấy các tác động của 15 hộ lên diện tích đất, rừng được giao là phù hợp và ít ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng, phục hồi và tái sinh rừng. Điều này được thể hiện khá rò như đối với những hộ gia đình có diện tích đất rừng được giao nhỏ như hộ Ông Đề, Bà Hương thì đã chuyển đổi sang trồng Chè, Sắn và một số loài cây ăn quả. Những hộ gia đình có diện tích đất lâm nghiệp được giao lớn hơn thì phương thức tác động và sử dụng cũng rất khác nhau như hộ gia đình Bà Ngọc, Ông Lâm: đối với diện tích rừng ở vị trí rừng xa nhà Ông, Bà chỉ duy trì chế độ tuần tra, bảo vệ song ít tác động vào, còn đối với vùng rừng nằm ở giữa lưng chừng đồi gia đình đã trồng xen một số cây bản địa và hàng năm tiến hành phát tỉa cây dây leo, cây chết; đối với diện tích gần nhà Ông, Bà đã tiến hành trồng nhiều cây bản địa vào những khu vực trống và
trồng Keo phía dưới chân rừng. Đây cũng là mô hình tiêu biểu ở trong thôn do đó cũng có nhiều hộ gia đình ở đây cũng đã áp dụng hình thức trên đối với phần diện tích đất lâm nghiệp được giao.
Hình 3.3: Bản đồ hiện trạng rừng năm 2013 thôn Khe Năm
“Nguồn LISO, 2013”
Trong quá trình quản lý, bảo vệ các gia đình ít tác động lên phần diện tích rừng từ giữa lưng chừng đồi lên đến đỉnh đồi nên cây rừng tự nhiên phát triển tốt và sinh trưởng rất nhanh. Theo số liệu điều tra và quan sát trên thực tế của tác giả cũng như chủ hộ gia đình, khu vực này thường có nhiều loài cây gỗ to, quý hiếm như Lim, Giổi, Kiền Kiền và cũng là nơi có trữ lượng rừng tốt nhất của khu vực thôn Khe Năm. Ông Trần Ngọc Lâm, một chủ hộ nhận rừng thôn Khe Năm chia sẻ:
“Hiện tại khu vực rừng của gia đình có rất nhiều cây gỗ quý với số lượng tương đối lớn, đặc biệt là Lim với số lượng lớn khoảng 300 - 400 cây. Cây Lim to nhất có đường kính khoảng 75 cm, ngoài ra còn nhiều loài cây khác như Re, Kiền Kiền”.
Hình 3.4: Sơ đồ hiện trạng rừng 15 hộ gia đình năm 2013
“Nguồn LISO, 2013”
Năm 2002, toàn thôn Khe Năm có 15 hộ được giao rừng theo Nghị định 163/NĐ-CP trong đó có 9 hộ trồng Keo và Mỡ. Đến thời điểm 2013 số hộ trồng các loài cây này đã tăng lên 13 hộ. Ngoài diện tích trồng Keo các hộ trồng bổ sung khá nhiều các loài cây bản địa như Lim, Cồng, Mỡ. Diện tích cây Keo được trồng chủ yếu trên phần đất lâm nghiệp chưa có rừng, trảng cây bụi, nằm ở vị trí dưới các chân đồi và không phải là vị trí đầu nguồn nước của các Khe. Điều này được thể hiện rất rò thông qua bảng số liệu điều tra hiện trạng rừng năm 2013, các trạng thái IA và IB hoàn toàn được thay thế bằng diện tích rừng trồng (Liên minh LISO, báo cáo tiền nghiên cứu rừng Khe Năm, 2013). Trong 15 hộ gia đình chỉ có 02 hộ gia đình là Bà Hương và Bà Xanh với diện tích đất đất lâm nghiệp được giao rất ít với diện tích 2 hộ chỉ có 0,4ha nên các hộ này đã chuyển đổi sang trồng trồng Chè, Sắn, cây ăn quả và một ít cây Keo trên diện tích được giao.
Hình 3.8: Rừng Khe Năm, 2013
“Nguồn: Google earth, 2013”
Hình 3.5, 3.6, 3.7: Cây lim có đường kính 75cm và các loài cây rừng khác tại hộ Ông Trần Ngọc Lâm
“Nguồn LISO, 2013”