Bảng 3.6: Các loài cây trồng bổ sung từ năm 2002 đến nay
Họ và tên | Các loài cây trồng bổ sung (cây) | Tổng | ||||||||||||
Lim | Dổi | Mỡ | Cồng | Dung | Keo | Gió | Re | Măng | Xoan | Dẻ | Thông | |||
1 | Trần Ngọc Lâm | 300 | 100 | 250 | 20.000 | 500 | 200 | 10 | 21.360 | |||||
2 | Phạm Quang Đề | 1.000 | - | 1.000 | ||||||||||
3 | Lưu Trọng Mỵ | 200 | - | 200 | ||||||||||
4 | Nguyễn Minh Lợi | 2.000 | 2.000 | 500 | 1.000 | 5.500 | ||||||||
5 | Nguyễn Công Tuân | 200 | 500 | 300 | 15.000 | 16.000 | ||||||||
6 | Đinh Thị Lựu | 300 | 50 | 200 | 10.000 | 200 | 10.750 | |||||||
7 | Nguyễn Mạnh Hà | 600 | 50 | 10.000 | 400 | 11.050 | ||||||||
8 | Nguyễn Thanh Vinh | - | ||||||||||||
9 | Lưu Trọng Bắc | 150 | 50 | 300 | 7.000 | 7.500 | ||||||||
10 | Lê Hồng Cư | 100 | 2.000 | 4.000 | 6.100 | |||||||||
11 | Nguyễn Trọng Hiệp | 300 | 300 | |||||||||||
12 | Nguyễn Phi Khanh | 250 | 30 | 200 | 480 | |||||||||
13 | Đào Văn Hạnh | 30 | 1.000 | 1.030 | ||||||||||
14 | Bùi Thị Hương | 3.000 | 3.000 | |||||||||||
15 | Nguyễn Phùng Chín | 1.000 | 20 | 2 | 100 | 1.122 | ||||||||
Tổng | 650 | 100 | 3.800 | 5.210 | 700 | 73.500 | 520 | 200 | 12 | 100 | 200 | 400 | 85.392 |
Có thể bạn quan tâm!
- Trạng Thái Và Chất Lượng Rừng Giao Cho 15 Hộ Gia Đình Theo Nghị Định 163/nđ-Cp.
- Diện Tích Và Tỷ Lệ % Các Loại Đất Lâm Nghiệp Năm 2013
- Ông Trần Ngọc Quang Đứng Cạnh Cây Lim Tái Sinh Sau 35 Năm
- Thu Hái Củi, Sử Dụng Gỗ Làm Chuồng Trại, Nhà Cửa
- Nghiên cứu phương thức quản lý, bảo vệ và phát triển rừng dựa vào cộng đồng tại xã Sơn Kim 1, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh - 11
- Nghiên cứu phương thức quản lý, bảo vệ và phát triển rừng dựa vào cộng đồng tại xã Sơn Kim 1, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh - 12
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
(Nguồn LISO: Điều tra thực địa năm 2013)
57
3.4.5. Nguồn thu từ lương và lương hưu
Trong thôn có 91 người đang hưởng lương nhà nước trong đó có 76 thành viên đang hưởng chế độ lương hưu, 15 người đang công tác và làm việc. Như vậy tỷ lệ người có thu nhập ổn định hàng tháng trong thôn Khe Năm chiếm 20.8% so với tổng dân số của thôn (91/438 khẩu).
Bên cạnh đó, trong 76 thành viên đang hưởng lương hưu có hơn 50% là công nhân Lâm trường. Theo danh sách các hộ hưởng lương thôn Khe Năm 100% các hộ giao đất giao rừng năm 2002 đều được hưởng lương hưu trong đó 8/15 hộ cả hai vợ chồng đều được hưởng. Tổng số tiền từ lương, lương hưu lên đến gần 1 tỷ đồng/năm/15 hộ gia đình.
Thông qua số liệu phỏng vấn 34 hộ gia đình trong thôn (bao gồm toàn bộ 15 hộ gia đình được GĐGR năm 2002) thì có 26 hộ có thu nhập từ lương và lương hưu, còn lại 8 hộ không có. Trong đó tổng số tiền lương và lương hưu năm 2013 của 15 hộ gia đình được giao đất, giao rừng năm 2002 là 794,160,000 triệu đồng, còn lại 13 hộ khác trong thôn là 614.520.000 triệu đồng.
Bên cạnh đó Thông qua phỏng vấn hộ thì nguồn thu từ lương và lương hưu của 15 hộ gia đình chiếm tỷ lệ cao so với tổng thu nhập của hộ gia đình.
BIỂU ĐỒ TỶ LỆ THU NHẬP TỪ LƯƠNG VÀ LƯƠNG HƯU CỦA 15 HỘ GIA ĐÌNH NĂM 2013
49%
51%
Nguồn thu từ lương và lương hưu
Nguồn thu từ các
nguồn khác
Hình 3.14: Tỷ lệ thu nhập từ lương và lương hưu của 15 hộ gia đình
Biểu đồ trên cho thấy tổng nguồn thu từ lương và lương hưu chiếm tới 49% tổng thu nhập bình quân của 15 hộ gia đình được GĐGR năm 2002 trong năm 2013. Như vậy nguồn thu ổn định từ lương và lương hưu đã góp phần không nhỏ vào kết quả duy trì, bảo vệ và phát triển rừng của các hộ gia đình từ năm 2002 đến nay. Theo chia sẻ của một số hộ gia đình tiền lương và lương hưu một phần được các hộ gia đình dùng vào việc tái đầu tư phát triển rừng như phát dọn thực bì, trồng cây bản địa, cây Keo và một phần dùng để duy trì cuộc sống hàng ngày. Điều này có thể minh chứng rằng để có được mô hình rừng như ngày hôm nay nguồn thu nhập ổn định từ lương và lương hưu có vai trò quan trọng không chỉ đối với 15 hộ gia đình Thông Khe Năm mà còn cả các hộ khác trong thôn.
3.5. Hiệu quả từ việc bảo vệ rừng
3.5.1. Có được hệ thống nước ổn định sau khi được giao đất, giao rừng
Theo chia sẻ của Chị Phạm Thị Nga thôn Khe Năm “Giữ rừng được nhất là có cái Nác mà ăn”
Hiện nay, trong thôn mặc dù hộ gia đình nào cũng có giếng khoan nhưng những hộ có nguồn nước bắt từ khe suối thì đều sử dụng cho việc đun nấu hàng ngày. Theo chia sẻ của các hộ dân sống trong thôn, trước những năm 2002 khi rừng chưa được giao phần lớn các hộ dân phải sử dụng nước
giếng khoan hoặc nước từ các khe trong Rú (Rừng) nhưng không đều và chất lượng nước cũng không tốt đặc biệt là vào mùa mưa lũ làm ảnh hưởng khá nhiều đến sinh hoạt, chăn nuôi, làm ruộng của người dân nơi đây. Không những vậy nguồn nước này còn bị cạn kiệt mất 2 tháng/năm vào mùa khô. Tuy nhiên, chỉ sau 3-4 năm được giao rừng theo Nghị định 163/NĐ-CP các hộ dân đều phấn khởi vì nguồn nước dồi dào và ổn định hơn ngày xưa. Nước lấy từ các khe về rất trong, sạch; nước chảy cả ngày, cả đêm chính vì thế hầu hết các gia đình sống trong thôn đều tự thiết kế đường dẫn nước từ khe về dùng cho sinh hoạt gia đình, cho chăn nuôi và làm ruộng.
Sơ đồ nguồn cung cấp nước từ khu rừng được giao đối với các hộ gia đình thôn Khe Năm
Trước khi GĐGR năm 2002:
Nước thiếu 2
tháng/năm vào mùa khô.
Năm 2006:
Nguồn nước ổn định và không bị thiếu.
Đến nay:
Nguồn nước dồi dào, sạch và thừa dùng cho sinh hoạt, tưới tiêu.
Bảng 3.7: Bảng thống kê số liệu sử dụng nước tại thôn Khe Năm
Hình thức sử dụng | Số hộ | Ghi chú | ||
2006 | 2013 | |||
1 | Nước khe suối | 8 | 15 | Số liệu thu thập trên 34 phiếu phỏng vấn hộ gia đình |
2 | Nước giếng đào | 34 | 34 | |
3 | Nước giếng khoan | |||
4 | Khác (cụ thể...) |
(Nguồn LISO: Số liệu phỏng vấn hộ, 2013)
Như vậy, thành quả quan trọng nhất theo nhận định chung của người dân thôn Khe Năm trong công tác GĐGR là đã tạo nên cơ hội lớn để họ có một nguồn nước sinh hoạt ổn định với chất lượng ngày càng được cải thiện.
Ngoài ý nghĩa trên chúng ta có thể hiểu thêm rằng muốn có nguồn nước khe đều đặn thì phải có rừng và muốn bảo vệ được rừng cần phải có sự đồng lòng, đồng sức cùng bảo vệ của các hộ dân cùng sinh sống trong thôn cũng như sự quan tâm hỗ trợ của các cấp chính quyền địa phương.
3.5.2. Ổn định hệ sinh thái rừng
Qua khảo sát và thu thập Thông tin của tác giả hiện tại trong khu vực rừng cộng đồng thôn, rừng hộ gia đình còn khá nhiều cây gỗ bản địa quý, có giá trị cao
như: Lim, Táu, Giổi, Mỡ, Cồng, Kiền kiền, Re. Trong rừng các loài cây có nhiều độ tuổi và kích thước khác nhau. Theo chia sẻ của các hộ và quan sát của tác giả cây gỗ nơi đây có 3 cấp độ chính:
Cây to thường là Lim, Re, Kiền Kiền, vanh giao động từ 200-300cm; Các cây gỗ nhỡ như: Cồng, Giổi mỡ, Lim có Vanh 80-120cm;
Cây gỗ nhỏ: Cây mới tái sinh và được người dân trồng từ những năm 2002 khi được giao rừng;
Trong rừng những cây gỗ to chiếm số lượng không nhiều và tập trung ở 6-7 hộ, còn lại ở các hộ khác là cây gỗ trung bình và nhỏ. Theo Ông Trần Ngọc Lâm, 51 tuổi tại thôn Khe Năm chia sẻ:
“Cách đây 30-40 năm ở rừng này nhiều Lim và cây gỗ khác có giá trị nhưng bị Lâm trường và người dân chặt phá hết rồi, những cây gỗ to còn sót lại là do chúng tôi tự bảo vệ do cây gần nhà, địa hình dốc khó khai thác và biết là cây có giá trị nên cố gắng không cho ai chặt phá mặc dù lúc đó chưa phải là đất của mình”.
Trên diện tích rừng được giao người dân chỉ tác động rất nhỏ như hàng năm các thành viên trong gia đình tự đi phát dọn, cắt tỉa những cây dây leo phi mục đích và tham gia đi tuần tra, bảo vệ hàng tuần. Toàn bộ khu rừng được giao cho cộng đồng thôn Khe Năm năm 2002 đều được các hộ dân bảo vệ và phát triển hợp lý và hiệu quả. Phần lớn các hộ sau khi được giao đất, giao rừng đều đầu tư công sức, nguồn vốn đề trồng bổ sung những cây bản địa vào khu vực đất trống, ít cây rừng. Các loài cây được lựa chọn đa phần là loài cây bản địa, phù hợp với điều kiện khí hậu, thời tiết, thổ nhưỡng nơi đây như Lim, Mỡ, Cồng, De. Hàng năm các thành viên trong gia đình tự đi phát dọn, cắt tỉa những cây dây leo, tu bổ rừng, tham gia hoạt động bảo vệ rừng theo quy định. Vì vậy mà cấu trúc hệ sinh thái rừng nơi đây ngày càng phát triển và ổn định hơn. Điều này đã được tác giả trình bày ở trên liên quan đến so sánh chất lượng rừng năm 2002 và năm 2013.
3.5.3. Ổn định sinh kế hộ gia đình
3.5.3.1. Thu nhập từ cây trồng
Bà Nguyễn Thị Đào chia sẻ: Có cây Lim họ đã trả tới 90 triệu đồng nhưng gia đình tôi nhất quyết không bán. Bán được một cây thì sẽ bán nhiều cây và tạo ra ảnh hưởng không tốt tới con cháu cũng các hộ gia đình sống trong thôn.
Từ cuối năm 2005, một số hộ chủ động phát tỉa những diện tích được giao phía chân đồi nơi có nhiều cây bụi, cây dây leo, nứa để trồng bổ sung Keo. Đến nay, có hộ đã thu hoạch được 2 lứa và tiếp tục trồng lứa thứ 3.
Do diện tích trồng Keo chỉ là tận dụng, trồng bổ sung ở phía chân rừng và những vùng đất trống nên nguồn thu lợi không nhiều. Tuy
nhiên, theo chia sẻ của nhiều hộ dân thì Keo trồng trên các diện tích này phát triển tốt, to, thẳng mà lại không tốn nhiều tiền đầu tư mua phân bón. Phần lớn tiền bán Keo được đầu tư quay trở lại vào rừng như mua giống cây bản địa trồng bổ sung hay đầu tư cho phát triển vườn hộ gia đình. Theo Ông Hòa chia sẻ các hộ dân lựa chọn cách trồng như vậy là rất đúng vì nếu phát hết cây rừng để trồng Keo thì chỉ được năm thứ nhất, năm thứ hai là tốt còn về sau thì cây không còn gì để ăn. Còn trồng dặm, trồng bổ sung ở các vị trí chân đồi cây Keo cũng như các cây bản địa sẽ được hưởng nguồn dinh dưỡng từ rừng chảy về nên sẽ nhanh lớn và nhanh được thu hoạch hơn nơi khác.
Việc trồng Keo ở ven chân đồi, trồng bổ sung các loài cây lâm nghiệp bản địa ở các khu vực rừng thưa là hướng đi hoàn toàn đúng đắn không những mang lại lợi ích chung cho khu vực về vấn đề môi trường mà còn góp phần ổn định sinh kế cho người dân nơi đây. Bên cạnh đó việc bảo vệ được những cây to nên hàng năm sẽ thu hút Ong mật, các loài thú rừng như Chồn, Lợn, Gà rừng về ngày càng nhiều hơn hệ sinh thái rừng sẽ ngày càng được cải thiện (Kết quả phỏng vấn hộ gia đình, 2013).
Bảng 3.8: Nguồn thu từ bán Keo năm 2013 của 15 hộ gia đình
Họ và tên | Địa chỉ | Tổng thu từ bán Keo năm 2013 (VNĐ) | Ghi chú | |
1 | Trần Ngọc Lâm | Khe Năm | 70.000.000 | |
2 | Nguyễn Công Tuân | Khe Năm | 16.000.000 | |
3 | Phạm Quang Đề | Khe Năm | 500.000 | |
4 | Nguyễn Thị Hương | Khe Năm | 30.000.000 | |
5 | Đinh Thị Lưu | Khe Năm | 52.000.000 | |
6 | Nguyễn Mạnh Hà | Khe Năm | 40.000.000 | |
7 | Lưu Trọng Bắc | Khe Năm | 1.000.000 | |
8 | Lê Hồng Cư | Khe Năm | 10.000.000 | |
9 | Nguyễn Trọng Hiệp | Khe Năm | 2.700.000 | |
10 | Đào Văn Hạnh | Khe Năm | 6.000.000 | |
11 | Nguyễn Trọng Hiệp | Khe Năm | 3.000.000 | |
12 | Nguyễn Minh Lợi | Khe Năm | 0 | |
13 | Nguyễn Thị Lan | Khe Năm | 0 | |
14 | Nguyễn Thành Vịnh | Khe Năm | 0 | |
15 | Trần Thị Huy | Khe Năm | 0 | |
Tổng thu từ bán Keo năm 2013 | 231.200.000 |
(Nguồn LISO: Nghiên cứu thực địa, 2013)
BIỂU ĐỒ TỶ LỆ THU NHẬP TỪ BÁN KEO SO VỚI TỔNG THU NHẬP CỦA 11 HỘ GIA ĐÌNH
Hình 3.15: Tỷ lệ nguồn thu từ bán Keo so với tổng thu nhập của 11 hộ gia đình GĐGR năm 2013
Như vậy, năm 2013 tổng nguồn thu từ bán Keo của 11 hộ gia đình là 231.200.000đ chiếm 18% so với tổng thu nhập năm 2013 là 1.574.475.000đ. Trong đó hộ thu được nhiều nhất là Ông Lâm với 70.000.000đ và ít nhất là Ông Đề là 500.000đ. Điều này cho thấy ngoài các nguồn thu khác thì thu nhập từ việc bán Keo cũng đã góp phần vào ổn định sinh kế của 11 hộ gia đình. Tuy nhiên, trong những năm tới nguồn thu này sẽ giảm bởi diện tích trồng Keo được thay thế dần bằng diện tích trồng cây bản địa, cây ăn quả.
3.5.3.2. Thu hái lâm sản ngoài gỗ
Phần lớn các hộ chia sẻ nguồn thu từ lâm sản ngoài gỗ trong diện tích rừng được giao chưa có nhiều. Nguồn thu có được do các hộ đi lấy sản phẩm ở các vùng khác ngoài khu rừng được giao. Trước đây diện tích cây Mây, Hèo tập trung nhiều ở phía dưới chân đồi, song đến thời điểm hiện tại các hộ đã phát tỉa để trồng Keo và các loài cây bản địa khác. Phần giữa sườn đồi trở lên phía trên đỉnh có rất nhiều Nứa, Giang song các hộ cũng rất ít khi khai thác để bán do đường đi lại khó khăn và giá trị kinh tế đem lại không cao. Măng nứa là sản phẩm chủ yếu và có thường xuyên trên diện tích rừng được giao. Thời gian thu hoạch măng trong năm tập trung vào tháng 8,9 dương lịch. Dù vậy, cũng rất ít hộ lấy bán mà chỉ sử dụng trong gia