Vai Trò Của Rừng Và Quá Trình Hình Thành, Phát Triển Rừng Thôn Khe Năm Qua Các Giai Đoạn

Công thức tính trữ lượng rừng: M = G.Hvn.F (trong đó G và Hvn tính trung bình).

M : Trữ lượng trung bình; G : Tiết diện ngang của cây; Hvn : Chiều cao cây;

F : Độ thon của cây (rừng tự nhiên F = 0.45, rừng trồng F= 0.5).

Trong nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp trên nhằm đánh giá được trữ lượng rừng hiện tại của 15 hộ gia đình sau hơn 10 năm quản lý bảo vệ. Đây là cơ sở để so sánh trạng thái rừng khi giao năm 2002 và năm 2014.

Phỏng vấn thông tin thành viên chủ chốt

Phỏng vấn bán cấu trúc, phỏng vấn sâu đã được thực hiện để thu thập thông tin và cơ cấu thu nhập, đời sống kinh tế của cộng đồng, cũng như những tác động của chủ hộ lên diện tích đất, rừng được giao. Tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu những người già trước đây từng là công nhân Lâm trường Hương Sơn: 4 thành viên, cán bộ xã Sơn Kim: 2 thành viên, Kiểm Lâm: 2 thành viên, Trung tâm TEW: 1 thành viên. Thông tin có được từ việc phỏng vấn sâu giúp tác giả có được cách nhìn tổng quan về lịch sử hình thành và phát triển rừng thôn Khe Năm qua từng giai đoạn đồng thời nắm rò hơn được những tác động của chính sách ảnh hưởng đến quá trình quản lý, bảo vệ và phát triển rừng của Thôn.

Thảo luận nhóm

Thảo luận lấy thông tin chung thông qua tổ chức họp nhóm những người cùng tham gia bảo vệ và phát triển rừng, nhóm những người ở những độ tuổi khác nhau và từ các thành phần kinh tế hộ khác nhau như hộ khá/giàu, trung bình và nghèo nhằm có được các thông tin chung liên quan đến công tác quản lý bảo vệ rừng của cộng đồng thôn, chiến lược sinh tồn của các nhóm hộ tại cộng đồng, phân công lao động, lịch thời vụ, phòng chống lũ lụt, dịch bệnh, hành động chung vì cộng đồng...

Phỏng vấn hộ gia đình thông qua bảng hỏi

Số hộ gia đình phỏng vấn theo bảng hỏi: 34 hộ/118 hộ trong thôn (bao gồm 15 hộ được giao đất lâm nghiệp năm 2002), các hộ còn lại bao gồm các hộ khá, hộ trung bình, hộ cận nghèo và nghèo trong thôn (lấy ngẫu nghiên theo danh sách của thôn).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

Sơ đồ Venn:

Phân tích các bên liên quan đến quản lý rừng cộng đồng: Chính quyền địa phương, Hạt kiểm lâm, Lâm trường, các hộ dân sống ngoài thôn liên quan đến công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng thôn Khe Năm.

Chính quyền địa phương

Cộng đồng thôn

Rừng 15 hộ gia đình

Các ban ngành liên quan

Người dân sống ngoài thôn

Các tổ chức, đoàn thể khác


Sơ đồ Venn được tác giả trình bày trong phần thuận lợi trong quá trình quản lý, bảo vệ rừng tại thôn Khe năm. Qua đó sẽ biết được cụ thể vai trò của các bên tham gia. Công cụ phân tích SWOT

Dùng công cụ này nhằm tìm hiểu những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách

thức của cộng đồng trong việc quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng, trên cơ sở đó đưa ra được những chỉ số chứng minh việc quản lý, bảo vệ rừng của hộ gia đình, cộng đồng thôn Khe Năm là có hiệu quả đồng thời là cơ sở để đưa ra những kiến nghị phù hợp.

Phương pháp xử lý phân tích số liệu

Trong nghiên cứu tác giả đã sử dụng phương pháp này với mục đích làm rò trạng thái rừng qua các thời kỳ cũng như phân loại sắp xếp các miền thông tin thu thập được thông qua phỏng vấn bảng hỏi hay quan sát thực tế. Những số liệu sẽ được minh họa cụ thể thông qua khung số liệu tổng hợp, các biểu đồ trích dẫn qua từng nội dung trong báo cáo nghiên cứu. Bên cạnh đó dựa trên các số liệu thông tin thu thập được về nguồn thu nhập của từng hộ, số lượng cây trồng qua các năm tác giả đã tổng hợp và phân tích nhằm đưa ra những chỉ số cụ thể về những hạn chế hay thay đổi tích cực trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng của các hộ dân nơi đây.

CHƯƠNG III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU‌

3 1 Lịch sử hình thành thôn Khe Năm Thôn Khe Năm cách Trung tâm xã Sơn Kim 1 3km 1

3.1. Lịch sử hình thành thôn Khe Năm

Thôn Khe Năm cách Trung tâm xã Sơn Kim 1,3km, cách Thị trấn Tây Sơn 2,5km và cách Quốc lộ 8 khoảng 1km.

- Phía Bắc thôn giáp với đỉnh Eo Co Lá;

- Phía Nam giáp với thôn Trưng;

- Phía Tây giáp với thôn Kim Cương II và thôn An Phú;


Sơn.

- Phía Đông giáp với Thị trấn Tây

Hình 3.1: Sơ đồ thôn Khe Năm - Sơn

Kim 1 - Hương Sơn - Hà Tĩnh

“Nguồn: LISO, 2013”

Tổng diện tích đất tự nhiên của thôn là 385,83ha, trong đó 337.3 ha đất rừng (nằm trọn trong Tiểu khu 51); đất nông nghiệp 5ha (đất trồng lúa 3 ha, đất trồng màu 2ha), đất cơ sở hạ tầng, mặt nước, vườn chiếm 43,8 ha. Phần lớn diện tích rừng được giao cho thôn theo Nghị định 163/NĐ-CP năm 2002 và Nghị định 181/NĐ-CP năm 2009.

Tổng số hộ của thôn là 118 chủ yếu là các hộ người Kinh (115 hộ) và 3 hộ dân tộc Mán. Nhân khẩu toàn thôn là 438 người, trong đó có 212 nam và 226 nữ.

Tổng thu nhập bình quân/đầu người đạt 18.000.000đ/năm với nguồn thu chủ yếu từ chăn nuôi, trồng trọt đặc biệt là từ làm thêm (bốc Keo, khai thác lâm sản phụ, đi lấy mật ong rừng, nghề phụ xây dựng…)2.Trong thôn có 4 hộ gia đình thuộc diện nghèo (9 khẩu); 7 hộ gia đình cận nghèo (25 khẩu), trong đó 3 hộ có rừng và 4 hộ không có rừng; 16 hộ gia đình trung bình; 92 hộ gia đình khá 92. Tỷ lệ người trong độ tuổi lao động tương đối cao đạt 56,4% trong tổng dân số thôn (247 lao động/438

nhân khẩu. Số người theo học các trường cao đẳng, đại học là 28 người trong đó 16 người đã tốt nghiệp và đang công tác. Trong thôn có 75 người hiện đang hưởng chế


2 Số liệu báo cáo của xã Sơn Kim 1 năm 2013.

độ lương hưu và 15 người đang công tác và hưởng lương nhà nước chiếm 20,6%. Số người về hưu chủ yếu là công nhân Lâm trường Hương Sơn trước đây.

Số hộ có rừng 80 hộ/118 hộ với tổng diện tích được giao là 337,3ha. Tổng số diện tích Keo đã trồng trong thôn khoảng 43ha, một số hộ trồng Keo từ năm 2002. Tính đến thời điểm hiện tại nguồn thu từ trồng Keo của các hộ có thể đạt con số cao nhất đạt khoảng 1,5 tỷ đồng trong năm 2013, trong đó hộ anh Hòa và Ông Cẩm bán được hơn 1 tỷ đồng3.

Toàn thôn có 50 con Trâu và 64 con Bò, 41 con Hươu. Thôn có 1 trại lợn khoảng 500 con được hình thành từ dự án hỗ trợ giống con, kĩ thuật, thức ăn và đầu ra của Công ty cổ phần chăn nuôi CP. Trong những năm qua, thôn Khe Năm cũng đã nhận được sự hỗ trợ của các dự án và hợp tác song phương như Dự án Bảo tồn Đa dạng Sinh học Bắc Trường Sơn (2000 - 2005), Dự án giao đất giao rừng của Trung tâm TEW (2002), Chương trình 135 giai đoạn I và giai đoạn II và Chương trình xây dựng nông thôn mới (2011).

Theo chia sẻ của người dân trong thôn, những người nguyên là cán bộ Lâm trường quốc doanh Hương Sơn đã về hưu:

Trước những năm 1980 toàn bộ diện tích đất ở, đất sản xuất, đất rừng tự nhiên thôn Khe Năm nằm trọn trong địa phận quản lý của Lâm trường Hương Sơn. Thời bấy giờ có 5 con khe lần lượt có tên là khe Cơ Điện, khe Chu Vi, khe Bệnh Viện, khe Bà Liễn, khe Đá Mài đều chảy qua địa phận của thôn. Năm con khe trên đều đổ vào khe Lớn nằm ở gần cuối thôn lúc bấy giờ. Thời điểm đó phần lớn các công nhân Lâm trường Hương Sơn đều sử dụng nguồn nước từ 5 Khe này để phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày”.

Cũng chính vì vậy mà không biết vô tình hay hữu ý những người đi trước đã đặt tên là thôn “Khe Năm” và từ đây thôn Khe Năm chính thức được công nhận và trở thành đơn vị hành chính quản lý của xã Sơn Kim từ năm 1991.


3 Theo chia sẻ của Ông Phạm Bá Minh – Trưởng thôn Khe năm.

3.2. Vai trò của rừng và quá trình hình thành, phát triển rừng thôn Khe Năm qua các giai đoạn

3.2.1. Vai trò của rừng đối với người dân Khe Năm

Rừng là một hệ sinh thái mà quần xã cây rừng giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ tương tác giữa sinh vật với môi trường. Rừng là hơi thở của sự sống, là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, nó giữ một vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển và sinh tồn của loài người. Rừng điều điều hóa khí hậu (tạo oxy, điều hòa nước, ngăn chặn gío bão, chống xói mòn đất,…) bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường sống, rừng còn giữa vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển kinh tế như: cung cấp nguồn gỗ, tre, nứa, đặc sản rừng, các loài động, thực vật có giá trị trong nước và xuất khẩu,…ngoài ra nó còn mang ý nghĩa quan trọng về cảnh quan thiên nhiên và anh ninh quốc phòng. Với người dân Khe Năm rừng của các Nhóm hộ gia đình đã và đang quan lý bảo có vai trò rất quan trọng với cộng đồng người dân nơi đây. Đối với môi trường

Rừng Khe Năm có tác dụng điều hòa tiểu khí hậu của Thôn thông qua việc giảm nhiệt chiếu từ mặt trời xuống toàn thôn và làm mát không khí. Điều này người dân Khe Năm cảm nhận rất rò bởi các nóng oi bức của gió mùa Tây-Nam (người dân nơi đây gọi là Gió Lào). Hàng năm cứ bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 5 âm lịch ở những nơi đất trống, không có rừng của huyện Hương Sơn nhiệt độ lên rất cao tới hơn 400C và kèm theo là gió cấp 6, cấp 7 đặc biệt là những nơi giáp với nước bạn Lào thì sức nóng và gió càng mạnh hơn. Với người dân Khe Năm nhờ bảo vệ được rừng, có được nguồn nước nên đã hạn chế tối đa những ảnh hưởng từ gió Lào mang đến. Theo người dân sống trong thôn chia sẻ vào mùa nắng gắt nhất nhiệt độ ở đây cũng chỉ 38-390C nhưng bù lại không khí lại mát hơn nơi khác do có rừng xung quanh che phủ làm giảm độ nóng, có nguồn nước tự chảy từ các khe trong rừng quyện vào các cơn gió giúp điều hòa tốt khí hậu đối với thôn Khe Năm.

Đất đai

Rừng mất đất thì kiệt, đất kiệt thì rừng cũng suy vong. Ở những nơi rừng bị phá hủy thì đất dần bị thoái hóa diễn ra mãnh liệt và nhanh chóng, khiến cho các vùng đất này hình thành khu đất trống, đồi trọc, trơ sỏi đá, mất dần tính giữ nước, độ chua tăng

cao, thiếu dinh dưỡng ảnh hưởng lớn đến các sinh vật. Hiện tượng bào mòn, rửa trôi cũng diễn ra nhanh, đất không còn độ bám dễ bị sạt lở. Với thôn Khe Năm thì điều đó rất ít xảy ra. Nhờ công tác bảo vệ rừng tốt mà đất rừng ở đây có độ phì nhiêu cao. Điều đó được thể hiện thông qua chỉ số trồng và thu hoạch Keo của các hộ gia đình. Từ năm 2002 đến nay, có hộ gia đình đã thu hoạch được 3 lứa Keo và cho thu nhập hàng trăm triệu đồng. Kết quả này có được là nhờ giữ được rừng ở trên cao, nhờ giữ được rừng nên hạn chế hiện tượng bào mòn, sạt lở, nhất là ở những nơi có địa hình dốc, lớp đất mặt không giữ được hệ thống vi sinh vật và các khoáng chất hữu cơ có trong đất. Chính vì thế mà cây rừng, cây trồng ở thôn Khe Năm ngày càng tươi tốt và đem lại hiệu quả kinh tế cao cho các hộ gia đình và cộng đồng sống trong thôn.

Bảo vệ nguồn nước, chống lũ lụt, giảm ô nhiễm môi trường

Một vai trò không kém phần quan trọng của rừng thôn Khe Năm là điều hòa nguồn nước, giảm dòng chảy bề mặt, tăng lượng nước ngầm, hạn chế hiện tượng lắng đọng, dòng sông, lòng hồ. Một minh chứng cho thấy vùng Hương Sơn là vùng hay bị ảnh hưởng của lũ lụt của tỉnh Hà Tĩnh như trận lụt lịch sử năm 2002 và năm 2013 làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến con người và tài sản. Tuy nhiên, với người dân thôn Khe Năm lại ít bị ảnh hưởng bởi những tác động này. Điều này, phần nào chứng tỏ việc bảo vệ rừng tốt sẽ hạn chế được những thiệt hại do thiên tai gây ra. Ngoài ra rừng Khe Năm còn cung cấp các loại gỗ và lâm sản ngoài gỗ có giá trị sử dụng cho con người trong nhiều lĩnh vực như: Thủ công mĩ nghệ, đồ gỗ nội thất, dược liệu, nghiên cứu khoa học,…

3.2.2. Quá trình hình thành, phát triển rừng thôn Khe Năm qua các giai đoạn

3.2.2.1. Giai đoạn năm 1977 trở về trước

Toàn bộ diện tích rừng Khe Năm đều thuộc Lâm trường Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh quản lý, bảo vệ và khai thác. Phần lớn người dân địa phương sống trong khu vực lúc bấy giờ đều là công nhân của Lâm trường hay là người nhà của những công nhân này. Ngoài những thành viên sống trong khu lán trại của Lâm trường còn có khoảng 40 hộ sinh sống độc lập bên ngoài. Những hộ này đều là công nhân của

Lâm Trường ở tách ra sau khi xây dựng gia đình. Hiện nay, địa điểm khu lán trại trước đây được quy hoạch và xây dựng thành Hội quán thôn hay chính là Nhà văn hóa thôn Khe Năm.

Hiện trạng rừng tự nhiên tại khu vực thôn Khe Năm lúc này bị tác động khá mạnh bởi chủ trương, chính sách của Nhà nước cho phép Lâm trường khai thác gỗ tự nhiên để xây dựng, phục hồi và phát triển kinh tế đất nước sau chiến tranh. Ông Phạm Bá Minh trưởng thôn Khe Năm chia sẻ:

“Thời bấy giờ từng đoàn xe nối đuôi nhau chở rất nhiều gỗ vận chuyển qua con đường chính của thôn Khe Năm bây giờ. Các loài cây gỗ chủ yếu khai thác trong khu vực này là Lim, Táu, Kiền Kiền, Giổi…Trong thôn lúc nào cũng nghe thấy tiếng máy, tiếng người rất nhộn nhịp”.

Cũng chính vì vậy rừng xung quanh thôn Khe năm bị phá nát và khai thác kiệt quệ, nguồn nước cung cấp cho các hộ gia đình cũng vì thế mà bị ảnh hưởng.

3.2.2.2. Giai đoạn 1986 - 1987

Hình thành xóm của Lâm trường: trong thôn có khoảng 60 hộ gia đình sinh sống, các hộ gia đình và các thành viên sống ở đây đã tự bầu tổ trưởng của xóm nhằm phụ trách, đôn đốc các hoạt động chung của xóm như ma chay, cưới hỏi hay các hoạt động khác. Hiện trạng rừng tại thời điểm này của thôn Khe Năm thay đổi khá nhiều so với trước đây vì diện tích rừng xung quanh thôn đang tái sinh và phát triển trở lại. Một số diện tích rừng nghèo được thay thế bằng rừng trồng như Giổi, Lim, Mỡ…Đối với những khu vực xa dân cư, khó chăm sóc Lâm trường đã quy hoạch thành vùng rừng tái sinh tự nhiên sau khai thác. Cùng lúc đó, các hộ là công nhân Lâm trường tách ra ở riêng đã tự khoanh nuôi các diện tích rừng liền kề với nhà để bảo vệ, chăm sóc và coi đó như rừng cá nhân của mình mặc dù Nhà nước chưa có quyết định cho phép.

3.2.2.3. Giai đoạn 1990-1991

Sát nhập thôn Khe Năm vào xã Sơn Kim: UBND xã Sơn Kim có văn bản chính thức sát nhập thôn Khe Năm vào cơ cấu hành chính của xã. Hệ thống quản lý

hành chính của thôn đã có Bí thư thôn, Xóm trưởng và các Ban liên quan để quản lý, hỗ trợ và phát triển thôn.

Từ năm 1990 đến nay thôn Khe Năm đã có 3 trưởng thôn là Ông Phan Trọng Mỵ (1990 - 2000), Ông Phan Văn Liêu (2000 - 2005), Ông Phạm Bá Minh (từ 2005 đến nay). Thời điểm này tại một số diện tích đất rừng gần khu dân cư đang được người dân tiếp tục tự khoanh nuôi bảo vệ với mục đích cung cấp củi đun, ổn định nguồn nước sinh hoạt, tưới tiêu cho nông nghiệp. Phần lớn khu vực này đang trong giai đoạn tái sinh phục hồi sau khai thác và một số hộ có trồng xen một số loài cây bản địa như Lim, Giổi, Cồng…

3.2.2.4. Giai đoạn 1992-1993

Thực hiện Quyết định 327/QĐ-CP năm 1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định 327/CT về một số chủ trương, chính sách sử dụng đất trống, đồi núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển và mặt nước. Với quyết định này, trong thôn đã có 15 hộ được khoán bảo vệ rừng. Các hộ được nhận khoán bảo vệ rừng đều là cán bộ của các Lâm trường. Phần lớn diện tích rừng nhận khoán bảo vệ thời điểm đó chính là diện tích đất lâm nghiệp mà các hộ dân đã tự khoanh nuôi bảo vệ từ những năm trước đó. Thời kỳ này, rừng tái sinh khá nhanh với tập đoàn các loài cây bản địa như Lim, Táu, Giổi…Một số hộ cũng đã tự trồng bổ sung một số cây bản địa như Cồng vào các vùng đất trống được giao. Lúc này nguồn nước cung cấp cho các hộ gia đình cũng rất hạn chế do bị ảnh hưởng bởi các tác động quá mức lên khu rừng nơi người dân lấy nước để sinh hoạt.

3.2.2.5. Giai đoạn năm 2002 đến nay

Giao đất lâm nghiệp và liên kết hộ gia đình để quản lý bảo vệ rừng. Cuối năm 2002, 15 hộ trong thôn Khe Năm trước đây đã được khoán bảo vệ theo Quyết định 327/QĐ-CP năm 1992 đã chính thức được giao 90,12 ha diện tích đất lâm nghiệp theo Nghị định 163/NĐ-CP. Diện tích đất lâm nghiệp được giao nằm trọn trong diện tích đất lâm nghiệp mà các hộ được khoán bảo vệ từ năm 1993. Chương trình giao đất lâm nghiệp do Trung tâm TEW cùng phối kết hợp với UBND huyện Hương Sơn thực hiện. Trong quá trình quản lý, bảo vệ và phát triển rừng nhiều hộ gia đình có nhiều sáng kiến tác động khác nhau như trồng dặm các loài cây bản địa

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 15/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí