Rủi Ro Từ Thiên Tai, Dịch Bệnh Và Các Rủi Ro Khác


thường thường xuất hiện những vấn đề phát sinh, những vấn đề này sẽ nhanh chóng được giải quyết nếu máy vận hành trơn tru. Ngược lại khi bộ máy không phù hợp, bản thân nó sẽ tạo ra các nút thắt, từ đó gây trở ngại cho việc tổ chức thực hiện chính sách. Bộ máy này bao gồm các cá nhân và các phòng ban chức năng tham dự vào quá trình triển khai chính sách hỗ trợ. Năng lực của đối tượng thực thi chính sách do đó ảnh hưởng trực tiếp và không nhỏ đến việc triển khai chính sách cũng như giải quyết những tình huống phát sinh từ quá trình thực thi chính sách. Khi những đối tượng được giao trách nhiệm tổ chức thực thi chính sách hỗ trợ có năng lực, họ sẽ có thể vận dụng linh hoạt những cách làm hay, những phương án giải quyết đem lại lợi ích cho các bên từ đó đem lại thành công cho chính sách; ngược lại khi năng lực của đội ngũ này không tốt, công tác tổ chức thực thi chính sách sẽ gặp nhiều bất cập từ những phản ứng của những đối tượng thụ hưởng chính sách khi họ không được đảm bảo đầy đủ quyền lợi, hoặc cảm thấy không được đối xử bình đẳng theo tinh thần của chính sách được ban hành.

Thứ năm, chính sách tuyên truyền và hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội (hoạt động truyền thông giảm nghèo, chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận với các dịch vụ về y tế, dịch vụ về giáo dục, chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở, chính sách an sinh xã hội, trợ giúp người có công và các đối tượng người yếu thế, trợ giúp pháp lý cho người nghèo): nhằm giải thiểu nghèo trên cả ba phương diện chất lượng cuộc sống, y tế và giáo dục. Trang bị và củng cố kiến thức xã hội cho người nghèo, tăng cường sức khỏe, nâng cao trình độ học thức, tạo điều kiện cho người nghèo hiểu biết được quyền, nghĩa vụ của mình, chủ động tiếp cận các chính sách trợ giúp của Nhà nước, vươn lên thoát nghèo.

Thứ sáu, các chính sách về bình đẳng giới: bình đẳng trong quan hệ gia đình, quan niệm trọng nam khinh nữ, ưu tiên cơ hội phát triển cho nam hơn nữ....v...v...cũng là một rào cản hạn chế sự phát triển con người của phái nữ, trẻ em gái. Rào cản này khiến phụ nữ và trẻ em gái ở nhiều vùng miền này ít được tham gia hoạt động xã hội, không có tiếng nói, là khía cạnh nghèo về vị thế xã hội.

1.3.2. Điều kiện tự nhiên - kinh tế của địa phương

Nghèo do điều kiện tự nhiên, địa hình, địa lý

- Ở các vùng địa hình hiểm trở, vùng sâu vùng xa, dân cư đi lại khó khăn, thời tiết khí hậu khắc nghiệt, không thuận lợi, đầu tư cơ sở hạ tầng hạn chế, khó khăn trong quá trình thực hiện các chính sách xã hội. Những bất lợi về địa lý (xa xôi, hẻo lánh...), thiếu hụt các công trình cơ sở hạ tầng (đường giao thông, điện, y tế, trường học...) cản


trở người dân đặc biệt là hộ nghèo về mặt trao đổi thông tin, trao đổi sản phẩm, không có điều kiện để trau dồi kiến thức, nâng cao năng lực sản xuất và nhận thức về tự bảo vệ cuộc sống của bản thân (như chăm sóc sức khỏe, vệ sinh môi trường), người dân ít có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ xã hội từ đó không được hưởng thụ các phúc lợi xã hội do nhà nước và các tổ chức từ thiện. Do đó, điều kiện tự nhiên, địa hình, địa lý tác động đến nghèo đa chiều ở cả 3 phương diện chất lượng cuộc sống, y tế và giáo dục.

- Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh: Các hộ gia đình nghèo thường đã rất chật vật để đối mặt với những khó khăn trong cuộc sống hàng ngày nên rất dễ bị tổn thương khi gặp phải những biến động bất thường. Nguồn thu nhập thấp, bấp bênh, khả năng tích lũy kém nên họ khó có khả năng chống trọi với các biến cố như thiên tai, hạn hán, mất mùa... Ngày nay khi dấu hiệu của biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt ( thời tiết nóng lạnh khắc nghiệt) khiến gia súc chết hàng loạt đồng thời làm giảm năng suất cây trồng khiến cho nhiều hộ gia đình sản xuất thua lỗ, lâm vào tình trạng nợ nần và khó khăn trong việc giải quyết nợ nần khiến tỷ lệ nghèo có nguy cơ gia tăng. Bên cạnh đó, dịch bệnh cây trồng và vật nuôi cũng dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng cho kinh tế của hộ gia đình và kinh tế chung, gây kiệt quệ kinh tế hộ nghèo, ảnh hưởng trực tiếp đến phương diện chất lượng cuộc sống của người dân.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

Nghèo do đặc điểm kinh tế

Nền kinh tế thị trường phát triển mạnh tạo sự thay đổi mạnh mẽ cho bộ mặt xã hội của vùng, miền, tỉnh, thành phố. Kèm theo đó là các luồng di cư dân từ nông thôn ra thành thị, từ khu vực sản xuất nông nghiệp sang khu vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Nhưng quy mô và luồng lao động dịch chuyển không tương xứng với sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội cũng như chất lượng lao động còn thấp, không đồng đều, không đáp ứng với yêu cầu nền kinh tế hiện đại đặt ra lại trở thành một gánh nặng cho nền kinh tế và cho chính người lao động. Ở các thành phố phát triển, một bộ phận không nhỏ dân cư vẫn sống trong cảnh nghèo bần hàn, sống trọ hoặc thậm chí sống trong khu ổ chuột, khu lán trại tạm bợ dưới gầm cầu, bên bờ sông..v...v.. nhà ở không kiên cố, điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, chật trội, không được tiếp cận với nguồn nước sạch hoặc vì giá mua nước cao nên buộc phải thay thế bằng những nguồn nước không hợp vệ sinh để sinh hoạt. Người lao động không có việc làm ổn định, dễ rơi vào tình trạng thất nghiệp, không được hưởng quyền lợi lao động chính đáng như tham gia BHYT, BHXH nên gánh nặng chi trả cho dịch vụ chữa bệnh cao. Mà tỷ lệ người mắc bệnh ở những đối tượng lao động phổ thông và lao động trình độ thấp lại khá cao nên người nghèo cứ rơi vào cái vòng luẩn quẩn của cuộc sống, nghèo chất lượng cuộc sống và y tế trầm trọng.

Nghiên cứu nghèo đa chiều ở tỉnh Salavan, nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào - 7


Ở những vùng dân cư mà nền kinh tế chủ yếu là kinh tế thuần nông, phương thức làm ăn thô sơ, lạc hậu, nền kinh tế kiểu tự cung tự cấp, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên thì khả năng con người rơi vào tình trạng nghèo đa chiều cao hơn. Ví dụ như đồng bào các dân tộc thiểu số có tỷ lệ hộ nghèo đa chiều cao hơn vùng đồng bằng, tỷ lệ hộ tái nghèo tiềm ẩn cao, trình độ dân trí thấp, nhận thức người dân hạn chế. Một số vùng còn tồn tại những hủ tục lạc hậu, tệ nạn xã hội gây hủy hoại con người về mặt sức khỏe, hạn chế thông tin dẫn đến nghèo các khía cạnh của đời sống.

Tác động của bất ổn kinh tế vĩ mô cũng mang đến một gánh nặng đáng kể cho đời sống xã hội, tăng nguy cơ nghèo đa chiều. Lạm phát cao tác động đáng kể đến nghèo và bất bình đẳng tại các vùng nông thôn và thành phố. Sự mất ổn định kinh tế vĩ mô này gây ảnh hưởng sâu rộng không chỉ cho nền kinh tế nói chung mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống người lao động, đặc biệt các hộ gia đình có thu nhập thấp: giá cả hàng hóa tăng mạnh, mất việc, giảm thu nhập, kinh doanh thua lỗ..v...v... Lạm phát cao, sức mua của đồng tiền giảm, người nghèo và người có thu nhập thấp ở đô thị dành phần lớn nguồn thu nhập cho lương thực thực phẩm và các nhu cầu thiết yếu như điện, nước, ga nên gặp khó khăn lớn trong sinh hoạt, không có phần thu nhập dành cho tiết kiệm. Điều này làm tăng tính dễ bị tổn thương, đặc biệt khi phải đối mặt với những nguy cơ đau ốm, bệnh tật. Lạm phát tăng cao cũng có tác động tiêu cực đến đời sống của nhiều hộ gia đình nông thôn, đặc biệt là những hộ không trồng lúa như khu vực chăn nuôi. Giá cả lương thực tăng cao làm chậm tiến độ chuyển dịch cơ cấu chăn nuôi trồng trọt, quy trình sản xuất và tiến độ giảm nghèo.

1.3.3. Rủi ro từ thiên tai, dịch bệnh và các rủi ro khác

Hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Do nguồn thu nhập thấp, bấp bênh, khả năng tích lũy kém nên họ không có khả năng chống trọi trước những biến cố bất ngờ xảy ra trong cuộc sống như mất mùa, thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khỏe.... (Tsui, 2002).

Các rủi ro trong sản xuất đối với người nghèo cũng rất cao do hộ nghèo thường không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm. Khả năng đối phó và khắc phục rủi ro kém do nguồn thu nhập hạn hẹp, không có sự tích lũy.

Ốm đau, dịch bệnh cũng là yếu tố đẩy con người vào cảnh nghèo và khiến người nghèo khó thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của nghèo . Người bị bệnh đồng thời phải gánh chịu hai gánh nặng: một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là gánh chịu chi phí khám chữa bệnh. Chi phí khám chữa bệnh là gánh nặng, đẩy họ đến chỗ vay


mượn, cầm cố tài sản, dẫn đến tình trạng họ càng có ít cơ hội để thoát khỏi vòng đói nghèo. Bên cạnh đó, khả năng tiếp cận các dịch vụ phòng bệnh như nước sạch, y tế... của người nghèo lại hạn chế làm tăng khả năng nhiễm bệnh của họ (Tsui, 2002).

1.3.4. Đặc điểm hộ gia đình

- Vấn đề nhân khẩu: quy mô hộ gia đình lớn hay nhỏ có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân đầu người. Đông con vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của nghèo . Đông con cũng là đặc điểm điển hình của các hộ gia đình nghèo (Thorbecke, 2013).

- Trình độ giáo dục và nghề nghiệp của chủ hộ ảnh hưởng đến tình trạng nghèo. Giáo dục và nghề nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm và thu nhập của hộ, và do vậy ảnh hưởng lên tình trạng nghèo của hộ. Tỷ lệ nghèo đa chiều có tương quan mạnh mẽ với trình độ giáo dục và nghề nghiệp của chủ hộ.

- Một địa phương có tổng dân số lớn, dân số ở trong đội tuổi lao động chiếm phần lớn vừa là thế mạnh về lực lượng lao động nhưng cũng là một gánh nặng về vấn đề việc làm, dễ dẫn đến tình trạng nghèo chất lượng cuộc sống.

- Chất lượng nguồn lao động là một trong những nguyên nhân trực tiếp của hiệu quả hoạt động của nền kinh tế tốt hay xấu, tỷ suất lợi nhuận/vốn đầu tư cao hay thấp quyết định đến khía cạnh nghèo thu nhập, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của người dân (Thorbecke, 2013).

- Tư duy, ý thức của người lao động:

+ Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo ở những vùng kinh tế nghèo, vùng sâu, vùng xa là do tính chủ thể của người lao động còn thấp, chưa tự chủ trong nắm bắt kiến thức sản xuất tân tiến, công nghệ mới, người nghèo chưa quyết tâm tự thoát nghèo mà còn trông chờ, ỷ lại vào chính sách Nhà nước.

+ Trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định: Những người có trình độ học vấn thấp, ít cơ hội kiếm được việc làm tốt, mức thu nhập hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu, do vậy không có điều kiện nâng cao trình độ của mình trong tương lai dẫn đến rơi vào cảnh nghèo và khó có cơ hội thoát nghèo. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp còn ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến sinh đẻ, giáo dục, nuôi dưỡng con cái...nên dễ tạo một chuỗi nghèo dai dẳng từ đời này sang đời khác. Trình độ học vấn thấp khiến người nghèo khó tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp.

+ Quan niệm lạc hậu, suy nghĩ an phận khiến cho một bộ phận dân cư có tư tưởng e ngại, không dám tiếp cận với các chính sách, các hoạt động cộng đồng, dẫn


đến nghèo khía cạnh tham gia cộng đồng, không có tiếng nói và không bảo vệ được quyền lợi của chính mình.

+ Nếp sống không khoa học, điều kiện sống không hợp vệ sinh dẫn đến nguy cơ mắc bệnh và dịch cao. Khi nhiễm bệnh, đối với đối tượng người nghèo thường không có điều kiện trị bệnh hoặc trị bệnh không dứt điểm nên vướng vào cái vòng luẩn quẩn của bệnh tật và túng tiền, càng rơi sâu tình trạng nghèo y tế và kinh tế (Thorbecke, 2013).

1.3.5. Đặc điểm cơ sở hạ tầng - dịch vụ xã hội

Cơ sở hạ tầng

Một trong những nguyên nhân nghèo là hệ thống cơ sở hạ tầng, điều kiện địa lý, núi non hiểm trở, sông suối và rừng rậm không có đường giao thông vận tải đi lại giữa các huyện và các bản làng, dân chủ yếu chỉ đi bộ kể cả việc vận chuyển các sản phẩm sản xuất được từ nương rẫy, vườn ở xa về nhà cũng bằng vai, gùi, ngựa v.v.... Cho nên vùng miền núi mà không có đường ô tô thì các dịch vụ, văn hóa, thương mại, truyền thông và khoa học công nghệ sẽ không vào đến nơi được và bị tách khỏi thế giới bên ngoài, không có đường xá việc ốm đau và học hành của con em người nghèo cũng bị hạn chế không tiếp cận được bệnh viện và trường lớp. Do đó việc thiếu hệ thống cơ sở hạ tầng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự nghèo (Alkire và cộng sự, 2015).

Dịch vụ xã hội cơ bản

Dịch vụ xã hội cơ bản là rất cần thiết cho việc phát triển toàn diện con người, đặc biệt là nhóm đối tượng yếu thế, người lao động và người nghèo. Sự phát triển hay trì trệ của các nhóm dịch vụ xã hội có ảnh hưởng đáng kể đến tăng/giảm mức trầm trọng nghèo đa chiều của con người (Alkire và cộng sự, 2015)..

- Các dịch vụ về giáo dục: Nhu cầu của các đối tượng là rất đa dạng, một trong số những nhu cầu và cũng là quyền cơ bản của con người là được học tập. Do vậy, dịch vụ về giáo dục đóng vai trò cực kì quan trọng đối với sự phát triển của con người và đặc biệt quan trọng đối với trẻ em. Các dịch vụ về giáo dục trang bị cho các đối tượng những kiến thức cơ bản để đáp ứng nhu cầu cuộc sống, giúp tạo sự kì vọng, sự tin tưởng để học tập, nâng cao trình độ học vấn, xóa nạn mù chữ cho các hộ gia đình nghèo.

Dịch vụ hướng nghiệp và dạy nghề: Cung cấp những kiến thức cơ bản và phù hợp với khả năng của đối tượng trước khi tham gia vào thị trường lao động nhằm giảm thiểu những rủi ro gặp phải của đối tượng.

- Các dịch vụ y tế: Cung cấp các dịch vụ mang tính chất y tế dự phòng như: tiêm chủng dự phòng, phát hiện dị tật thai nhi sớm,… giúp cho các hộ gia đình biết


trước được vấn đề về tình trạng sức khỏe, từ đó có thể phòng ngừa hoặc chữa trị kịp thời, tránh trường hợp gây thương tổn hoặc tử vong (Alkire và cộng sự, 2015).

Các hình thức bảo hiểm đặc thù cho các đối tượng: Cung cấp nguồn tài chính giúp duy trì cuộc độc lập cho các đối tượng trong trường hợp gặp phải những rủi ro bất khả kháng như thất nghiệp, tuổi già, tai nạn,… như: bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm dự phòng tuổi già. Dịch vụ y tế cho các đối tượng đặc thù: Cung cấp các dịch vụ khám chữa bệnh miễn phí hoặc giảm lệ phí cho các đối tượng đặc thù: người tàn tật nặng, các đối tượng nhiễm HIV/AIDS, người mất khả năng lao động, …

- Hoạt động tín dụng: Cung cấp các dịch vụ về tín dụng cho những người có thu nhập thấp cũng có thể tham gia tạo lập vốn khi có nhu cầu. hoặc sử dụng trong những trường hợp can thiệp cấp bách hạn chế thiệt hại khi xảy ra rủi ro (rất nhiều bằng chứng từ khảo sát, thí điểm mô hình quỹ an sinh thôn bản cho thấy người dân cần được cung cấp dịch vụ này với hình thức tài chính vi mô). Trợ giúp bằng tiền, trợ giúp bằng hiện vật khi các đối tượng gặp phải các rủi ro bất khả kháng và có nhu cầu cần trợ giúp để đảm bảo nhu cầu trong thời gian ngắn hạn, giảm tình trạng thiếu hụt trong hoạt động sản xuất và sinh hoạt, từ đó giảm mức độ thiếu hụt nhu cầu cơ bản của các hộ nghèo (Alkire và cộng sự, 2015).

1.4. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và một số địa phương của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong giảm nghèo đa chiều

1.4.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới

Kinh nghiệm của Campuchia

Campuchia là một quốc gia nghèo ở khu vực Đông Nam Á. Thời gian qua, chính phủ Campuchia đã có nhiều nỗ lực trong giảm nghèo có chính sách thu hút các tổ chức tài chính quốc tế hỗ trợ vốn xóa đói giảm nghèo, tổ chức các chương trình tín dụng nhỏ trong các địa bàn để cấp tín dụng cho người nghèo. Thực hiện mô hình “Minh bạch tài chính nhỏ” để đảm bảo tính minh bạch về tỷ lệ lãi suất của các tổ chức tín dụng vì người nghèo, đây là một sáng kiến của ông Chuck Waterfield, chuyên gia tài chính vi mô và là giáo sư của Trường Đại học Columbia được thử nghiệm ở Campuchia. Mục tiêu chính mà Waterfield muốn là làm sao xóa được khoảng cách rất lớn giữa nhu cầu vay những món vay nhỏ và các tổ chức tài chính cung cấp dịch vụ cho vay đó. Nếu thành công, chương trình này sẽ giúp đại đa số người nghèo trên thế giới có thể tiếp cận nguồn vốn tín dụng nhỏ một cách nhân bản hơn.

Một kinh nghiệm khác của Campuchia được cộng đồng quốc tế đánh giá cao đó là hợp đồng cải thiện dịch vụ y tế.


Cuối thập kỷ 90, các chỉ số về y tế của nước này thuộc loại tồi ở Đông Nam Á. Tuổi thọ bình quân người dân tính từ khi sinh là 55 năm. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em là 95 trên 1000 ca sinh. Và tỷ lệ tử vong của bà mẹ là 437 trên 1000 ca sinh. Hệ thống chăm sóc sức khoẻ cộng đồng vẫn còn thô sơ, bệnh nhân than phiền chất lượng rất thấp. Đứng trước thực tế đó, chính phủ Campuchia đã thực hiện một loạt các giải pháp nhằm quyết tâm cải thiện tình trạng hiện tại, trong số đó phải kể đến hình thức hợp đồng thuê ngoài. Vào năm 1998, chính phủ đã ký hợp đồng với các tổ chức phi chính phủ để cung ứng dịch vụ y tế ở một số huyện.

Ký hợp đồng thuê dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu bao gồm hai hình thức hoặc thuê trong hoặc thuê ngoài. Để thấy được hiệu quả do ký hợp đồng thuê dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, chính phủ đã đưa ra ba vùng sử dụng hình thức cung ứng khác nhau. Nhà thầu được chọn thông qua một quá trình cạnh tranh dựa trên chất lượng đề xuất kỹ thuật và giá cả của họ. Có ba cách tiếp cận được sử dụng:

Thuê ngoài, nhà thầu có toàn bộ trách nhiệm cung ứng dịch vụ đã nêu cụ thể trong huyện, trực tiếp tuyển dụng nhân viên và có toàn quyền kiểm soát quản lý.

Thuê trong, nhà thầu chỉ hỗ trợ quản lý cho các nhân viên y tế dịch vụ công, và các chi phí hoạt động thường xuyên được chính phủ cung cấp thông qua những kênh thông thường của chính phủ.

Vùng đối chứng, duy trì hình thức chính phủ cung ứng bình thường.

Điểm lưu ý ở đây đó là ngân sách chỉ hỗ trợ cho hai địa bàn nơi áp dụng hình thức thuê trong và đối chứng. Sau một thời gian vận hành, kết quả cho thấy ở tất cả các địa bàn áp dụng hình thức thuê dịch vụ như sau:

- Tăng được diện phục vụ trong một thời gian ngắn, điều đáng quan tâm hơn là người nghèo đã được tiếp cận với các dịch vụ y tế nhiều hơn và chất lượng hơn. Sở dĩ đạt được kết quả như vậy là do mức độ thường xuyên sẵn có thuốc men và nhân viên có trình độ đã tăng cường được việc cung ứng dịch vụ tại các trung tâm y tế ở làng xã, nơi mà hầu hết người nghèo tập trung. Ngoài ra, khi ký kết hợp đồng cung ứng dịch vụ, một loạt các chỉ số y tế dùng để đánh giá mức độ hoàn thành cũng như chất lượng của dịch vụ được cung ứng đã được thoả thuận giữa chính phủ và các tổ chức phi chính phủ. Thêm vào đó, mức độ sẵn có các dịch vụ y tế ở các làng xã đã làm giảm chi phí đi lại để khám chữa bệnh. Điều này một lần nữa làm cho người nghèo được tiếp cận với dịch vụ y tế nhiều hơn.

- Cải thiện dịch vụ y tế cho người nghèo đòi hỏi nhân viên y tế phải được đãi ngộ thoả đáng, được hỗ trợ và chỉ đạo hiệu quả. Các tổ chức phi chính phủ đã giải


quyết tốt vấn đề này. Đối với hình thức thuê ngoài, mặc dù không qui định phí sử dụng chính thức, không khuyến khích nhân viên y tế lấy phí “không chính thức” nhưng các tổ chức phi chính phủ vẫn thu hút và giữ chân các nhà cung ứng dịch vụ y tế, đội ngũ y, bác sĩ bằng cách trả lương căn cứ vào mức lương thị trường và các khoản thưởng khuyến khích theo mức độ hoàn thành và chất lượng công việc của họ. Đổi lại, các tổ chức phi chính phủ yêu cầu người cung ứng phải làm việc trong ngày tại các cơ sở y tế, không được khám bệnh riêng tại nhà. Mặt khác, ở những nơi áp dụng hình thức thuê trong, các tổ chức phi chính phủ đã hỗ trợ tiền lương cho người cung ứng bằng kinh phí riêng của mình. Việc làm đó đã hạn chế được tình trạng khá phổ biến ở những vùng đối chứng, đó là cho phép nhân viên được theo đuổi hành vi tối đa hoá thu nhập cá nhân thông qua các khoản phí không chính thức và khám riêng tại nhà. Điều này đã làm tổn hại đến dịch vụ chăm sóc y tế công cộng cho những người nghèo nhất trong số người nghèo.

Cơ cấu phí minh bạch và có thể dự đoán trước đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế. Ở nơi áp dụng hình thức thuê trong- nơi duy nhất trong ba vùng- xây dựng hệ thống phí sử dụng chính thức. Mức phí này được ban hành có sự tham khảo ý kiến của cộng đồng có tác dụng khuyến khích nhân viên y tế rất lớn. Mức phí này được niêm yết ở nơi công cộng đã hạn chế được phần nào hiện tượng đưa tiền cho nhân viên y tế, do đó chi tiêu từ tiền túi cho y tế có giảm hơn vùng đối chứng nhưng không bằng vùng thuê ngoài. Như vậy, với việc giảm chi phí tiền túi cá nhân cho dịch vụ và cơ cấu phí minh bạch đã làm tăng cầu về dịch vụ chăm sóc y tế của người nghèo.

Kinh nghiệm của Thái Lan

Trong những năm qua Thái Lan đã có nhiều cố gắng để thực hiện chương trình XĐGN nhất là những người nghèo ở nông thôn và vùng miền núi và đã đạt được nhiều kết quả đáng kể. Thái Lan đã ban hành và thực hiện nhiều chính sách xóa đói giảm nghèo, điển hình là chính sách hỗ trợ tài chính vi mô của Ngân hàng nông nghiệp hợp tác xã tín dụng (BAAC) để giúp người nghèo ở thành thị và nông thôn miền núi để có khả năng tham gia vào phát triển sản xuất nông nghiệp và các hoạt động liên quan đến nông nghiệp.

BAAC cung cấp các món vay nhỏ tới người nghèo không có tài sản thế chấp, có nghề nghiệp ổn định và lịch sử tín dụng tốt. Hoạt động tín dụng vi mô cho phép người nghèo thực hiện các dự án nhỏ nhằm nâng cao thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống và thoát nghèo. BAAC thực hiện cho vay bán buôn thông qua các tổ nhóm và các

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 03/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí