Quan Niệm Về Nghèo Theo Thu Nhập Của Nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào


Theo Ngân hàng thế giới (WB), thì nghèo “được tuyên bố là sự tước đoạt hạnh phúc, và nó bao gồm nhiều khía cạnh. Đó là thu nhập thấp và việc không thể đáp ứng những hàng hóa và dịch vụ cơ bản, cần thiết để tồn tại. Nghèo cũng bao gồm mức độ y tế với giáo dục thấp, khả năng tiếp cận nước sạch và các điều kiện vệ sinh thấp, tình trạng an ninh không đảm bảo, thiếu tiếng nói, không đủ khả năng và cơ hội có cuộc sống tốt hơn.”

Ở nước CHDCND Lào: “Nghèo đồng nghĩa với nhà ở bằng tranh tre, nứa lá tạm bợ, dột nát; không đủ đất đai sản xuất, không có trâu bò, không có tivi, con cái thất học, ốm đau không có tiền đi khám chữa bệnh…”.

1.1.2. Quan niệm về nghèo theo thu nhập

1.1.2.1. Quan niệm về nghèo theo thu nhập trên thế giới

Nghèo là một vấn nạn đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người, là một trong số những thước đo quan trọng để phản ánh chất lượng cuộc sống, là một vấn đề toàn cầu mà hiện nay luôn được các quốc gia quan tâm và tìm mọi cách để giảm nghèo bền vững. Xác định bản chất của nghèo và cách thức đo lường nghèo là vấn đề kinh tế hết sức phức tạp và khó khăn.

Trước đây, nghèo thường được đo bằng thu nhập hoặc chi tiêu, điều này có nghĩa là các chuẩn nghèo được xác định dựa trên mức thu nhập đáp ứng những nhu cầu tối thiểu và được quy ra bằng tiền và người nghèo hay hộ nghèo là những đối tượng có mức thu nhập thấp hơn chuẩn nghèo.

Theo đó, World Bank (2018) đã đưa ra chuẩn nghèo theo thu nhập như sau: thu nhập dưới 3,2 USD/ngày là ngưỡng nghèo cùng cực của các nước thu nhập trung bình thấp, trong khi đó ngưỡng này ở các nước thu nhập trung bình cao là 5,5 USD/ngày.

Trong đó, châu Phi cận Sahara là khu vực có tỷ lệ nghèo cùng cực lớn nhất. Trong đó tỷ lệ tăng lớn nhất là tỷ lệ dân số có thu nhập từ trên 1,9 USD đến dưới 3,2 USD/ngày. Những người nghèo ở đây phải sống trong nhiều điều kiện thiếu thốn như thiếu lương thực, điều kiện giáo dục và các dịch vụ cơ sở hạ tầng cơ bản.

Đông Á - Thái Bình Dương là khu vực đạt thành tích tốt nhất về thúc đẩy thịnh vượng chung. Nhóm 40% thu nhập thấp nhất của khu vực này tăng thu nhập trung bình 4,7%/năm. Đông Á là khu vực giảm nhiều nhất về số người nghèo cùng cực và tỷ lệ dân số có thu nhập bình quân dưới 3,2 và 5,5 USD/ngày. Mặc dù tỷ lệ nghèo cùng cực còn rất thấp nhưng tỷ lệ dân số thiếu điều kiện vệ sinh của khu vực này lại khá cao….

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

- Tuy nhiên, các quốc gia đều tự đưa ra chuẩn đói nghèo riêng của nước mình và thường thấp hơn chuẩn đói nghèo mà WB khuyến nghị. Chẳng hạn:


Nghiên cứu nghèo đa chiều ở tỉnh Salavan, nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào - 5

- Nước Mỹ ngưỡng nghèo của người dân Mỹ là 26.246 USD/năm đối với một gia đình 4 người. Điều này nghĩa là hộ gia đình có 2 người lớn, 2 trẻ em và thu nhập trước thuế dưới 26.246 USD/năm được coi là hộ nghèo.

- Trung Quốc là một trong những quốc gia có tỷ lệ nghèo đói cao. Theo phân loại của quốc gia này, người có thu nhập dưới 2.300 nhân dân tệ/năm được xếp vào nhóm nghèo cùng cực. Chuẩn nghèo này của Trung Quốc thấp hơn một nửa so với tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (WB) đặt ra là dưới 700 USD/năm.

1.1.2.2. Quan niệm về nghèo theo thu nhập của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

Chuẩn nghèo bình quân cả nước là: 261.000kip/người/tháng. Cho giai đoạn 2011-2020.

Cách thức đo lường này đã duy trì trong thời gian dài và bắt đầu xuất hiện những hạn chế:

Thứ nhất, một số nhu cầu cơ bản của con người không thể quy ra tiền (như tham gia xã hội, an ninh, vị thế xã hội, v.v...) hoặc không thể mua được bằng tiền (tiếp cận giao thông, thị trường và các loại cơ sở hạ tầng khác, an ninh, môi trường, một số dịch vụ y tế/giáo dục công v.v...).

Thứ hai, có những trường hợp hộ gia đình có tiền nhưng không chi tiêu vào việc đáp ứng những nhu cầu tối thiểu (do cả những lý do khách quan như không có sẵn dịch vụ hay lý do chủ quan như do tập tục văn hóa địa phương hay do chính nhận thức của người dân).

Vì những hạn chế trên nếu chỉ sử dụng chuẩn nghèo thu nhập để đo lường và xác định đối tượng nghèo sẽ dẫn đến bỏ sót đối tượng, nhận diện nghèo và phân loại đối tượng chưa chính xác, từ đó chính sách hỗ trợ mang tính cào bằng và chưa phù hợp với nhu cầu. Để khắc phục những hạn chế do cách thức đo lường này đem lại phương pháp đo lường nghèo đa chiều đã ra đời, phù hợp với bản chất đa chiều của nghèo và đem lại những hiệu quả cao hơn trong việc xác định cá thể/ hộ nghèo để tiến tới giảm nghèo bền vững.

1.1.3. Quan niệm về nghèo đa chiều

1.1.3.1. Quan niệm về nghèo đa chiều trên thế giới

Quan niệm về nghèo đa chiều của các tổ chức quốc tế

Giống như phát triển, nghèo có tính đa chiều nhưng trong quá khứ điều này thường bị bỏ qua bởi các thước đo về nghèo thu nhập. Tuy nhiên, cho đến thời điểm


hiện này nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng các phương pháp đo lường đa chiều

để rà soát và đánh giá nghèo tại quốc gia mình.

Theo Amartya Sen, người đoạt giải thưởng Nobel về kinh tế, cho rằng để sinh tồn thì con người cần có những nhu cầu tối thiểu về vật chất và tinh thần, nếu thiếu những nhu cầu tối thiểu này thì con người bị coi là sống trong nghèo .

Để đánh giá tình trạng nghèo của hộ gia đình một cách toàn diện, khi nghiên cứu vấn đề nghèo của hộ gia đình cần được xem xét và phân tích theo các chỉ tiêu khác nhau, do đó, ngoài các phương pháp nghiên cứu truyền thống, việc đánh giá mức độ nghèo của hộ gia đình không chỉ dựa trên thu nhập hay chi tiêu, mà cần đánh giá mức độ "nghèo đa chiều" qua khía cạnh xã hội của đời sống dân cư với những thiếu hụt mà họ có thể phải gánh chịu như an sinh xã hội, giáo dục, y tế, nhà ở, hoạt động xã hội và an ninh.

Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP - năm 1997) đã đưa ra khái niệm về nghèo đa chiều HPI (Human Poverty Index) là chỉ số nghèo tổng hợp được dùng để tính toán mức độ nghèo đa chiều với ba khía cạnh của cuộc sống đó là tuổi thọ (được đo bằng xác xuất sống chưa đến 40 tuổi); trình độ văn hoá (được đo bằng tỉ lệ mù chữ ở người lớn) và điều kiện sống (được đo bằng hai tiêu chí là tỷ lệ dân số không được tiếp cận bền vững tới nguồn nước hợp vệ sinh và tỉ lệ trẻ em thiếu cân so với tuổi). Mặc dù có cải tiến hơn so với chỉ số nghèo khi tính đơn thuần theo thu nhập nhưng HPI cũng bộc lộ một số hạn chế khi mà chỉ số này đã không tâm đến khía cạnh thu nhập - một trong số những khía cạnh quan trọng nhất để đánh giá nghèo . Tuy chưa thật sự đầy đủ xong HPI là một mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển mình của các phương pháp đo lường nghèo trên thế giới từ chỉ sử dụng thu nhập là thước đo duy nhất sang sử dụng nhiều chỉ số khác nhau để đánh giá. Khoảng gần 1 thập niên sau nhằm khắc phục những hạn chế của chỉ số HPI chỉ số nghèo đa chiều (Multidimensional Poverty Index - MPI) do Đại học Oxford và UNDP áp dụng dựa trên phương pháp luận của Alkire và Foster (2007) ra đời và được áp dụng rộng khắp trên thế giới.

Đến năm 2008 theo Tuyên bố của Liên Hợp Quốc khái niệm nghèo được định nghĩa như sau: “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn, đủ mặc, không được đi học, không được đi khám bệnh, không có đất đai để trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, không có quyền, và bị loại trừ của các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Nghèo có nghĩa là dễ bị bạo hành, phải sống ngoài lề xã hội hoặc trong các điều kiện rủi ro, không được tiếp cận nước sạch và công trình vệ sinh an toàn”.


Theo các quan điểm trên, ta thấy rõ nghèo là một vấn đề đa chiều và khi nghiên cứu nghèo người nghiên cứu cần phải xét nghèo trên phương diện về phúc lợi kinh tế và quyền lợi xã hội để tránh bỏ xót và đưa ra các chính sách giảm nghèo không triệt để. Nghèo không phải chỉ là sự không thoả mãn mức tối thiểu về nhu cầu vật chất mà nó còn là sự thiếu hụt về tinh thần, về khả năng tiếp nhận những dịch vụ cơ bản trong cuộc sống con người hay nói như Amartya Sen (nhà triết học - kinh tế học từng nhận giải Nobel thì nghèo không chỉ là thiếu thốn tiền bạc, mà còn là thiếu khả năng hiện thực hoá năng lực tiềm tàng của mỗi cá thể với tư cách là một con người. Từ đó ta mới xác định được gốc rễ của giảm nghèo không đơn thuần là tạo việc làm, tăng thu nhập cho người người dân mà còn kích thích ý thức phát triển của họ, bên cạnh đó còn phải giúp họ tăng vai trò, tăng tiếng nói trong xã hội, cung cấp các dịch vụ công để nâng cao chất lượng cuộc sống cho người nghèo…

Khi đặt nghèo lên bàn cân người ta dựa vào chuẩn nghèo để xác định một cá nhân, một hộ có được công nhận là nghèo hay không. Vậy chuẩn nghèo là thước đo (hay tiêu chí) nhằm xác định ai là người nghèo (hoặc không nghèo) để thực hiện các chính sách hỗ trợ giảm nghèo của nhà nước; nhằm bảo đảm công bằng trong thực hiện các chính sách giảm nghèo. Căn cứ vào mức sống thực tế các quốc gia, trình độ phát triển kinh tế - xã hội mà mỗi một vùng lãnh thổ lại có chuẩn nghèo khác nhau nên không thể đánh đồng mọi người nghèo trên thế giới và cũng không thể dùng một giải pháp giảm nghèo chung cho toàn thế giới

Quan niệm về nghèo đa chiều của Việt Nam

Nhằm đánh giá thực trạng nghèo của đất nước Việt Nam trong bối cảnh mới, ngày 07/01/2021, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 07/2021/NĐ-CP quy định chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 - 2025.

Nghị định đưa ra các tiêu chí đo lường nghèo đa chiều; chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình và trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác giảm nghèo giai đoạn 2021 - 2025. Chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều năm 2021 và giai đoạn 2022 - 2025 được quy định cụ thể như sau:

Chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều năm 2021

Từ ngày 01/01/2021, tiếp tục thực hiện chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2011 - 2020 theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là căn cứ để đo lường và giám sát mức độ thiếu hụt về thu nhập và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân; là cơ sở xác định đối tượng để thực hiện các chính sách giảm nghèo, an sinh xã hội và hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội khác năm 2021.


Chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2025

* Các tiêu chí đo lường nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2025:

- Tiêu chí thu nhập: Khu vực nông thôn: 1.500.000 đồng/người/tháng; khu vực thành thị: 2.000.000 đồng/người/tháng.

- Tiêu chí mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản, gồm:

(1) Các dịch vụ xã hội cơ bản (06 dịch vụ), gồm: việc làm; y tế; giáo dục; nhà

ở; nước sinh hoạt và vệ sinh; thông tin.

(2) Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản (12 chỉ số), gồm: việc làm; người phụ thuộc trong hộ gia đình; dinh dưỡng; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin.

(3) Dịch vụ xã hội cơ bản, chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản và ngưỡng thiếu hụt quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này.

* Chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình giai đoạn 2022 - 2025

- Chuẩn hộ nghèo: Hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ

1.500.000 đồng trở xuống và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên ở khu vực nông thôn. Hoặc hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 2.000.000 đồng trở xuống và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên ở khu vực thành thị.

- Chuẩn hộ cận nghèo: Hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ

1.500.000 đồng trở xuống và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản ở khu vực nông thôn. Hoặc hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 2.000.000 đồng trở xuống và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản ở khu vực thành thị.

- Chuẩn hộ có mức sống trung bình: Hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 1.500.000 đồng đến 2.250.000 đồng ở khu vực nông thôn. Hoặc hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng ở khu vực thành thị.

Chuẩn hộ nghèo, chuẩn hộ cận nghèo, chuẩn hộ có mức sống trung bình là căn cứ để đo lường và giám sát mức độ thiếu hụt về thu nhập và dịch vụ xã hội cơ bản của người dân; là cơ sở xác định đối tượng để thực hiện các chính sách giảm nghèo,


an sinh xã hội và hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội khác của Việt Nam giai

đoạn 2022 - 2025.

1.1.3.2. Quan niệm nghèo đa chiều của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

Khái niệm nghèo đa chiều ở CHDCND Lào nghèo không hẳn chỉ là đói ăn, thiếu uống hoặc thiếu các điều kiện sống, sinh hoạt khác mà nghèo còn do sự tồn tại các rào cản về xã hội và các tác nhân khác ngăn chặn những cá nhân hoặc cộng đồng tiếp cận với các dịch vụ về: sức khỏe, giáo dục và mức sống.

Chính phủ CHDCND Lào đã đưa ra khái niệm về nghèo (theo góc độ đa chiều) theo tình hình thực tế của Lào như sau:“Nghèo là sự thiếu thốn các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống hàng ngày như: Thiếu lương thực thực phẩm không thể đáp ứng được

2.100 Ca- lo/người/ngày), thiếu quần áo mặc, không có nhà ở cố định, không có khả năng chi tiền thuốc men khi ốm đau, không có khả năng chi tiền phí giáo dục cơ bản, không có điều kiện tiếp cận cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội.”

Tại Lào, chuẩn nghèo được điều chỉnh sao cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Từ năm 1995 đến năm 2015, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội đã 6 lần công bố tiêu chuẩn cụ thể cho hộ nghèo. Các tiêu chí này thay đổi theo thời gian cùng với sự thay đổi mặt bằng thu nhập quốc gia. Các chuẩn nghèo của Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội ban đầu được quy đổi dựa trên thu nhập bình quân đầu người, nhưng từ năm 2005 được tính theo phương pháp tiếp cận dựa vào chi phí cho những nhu cầu cơ bản. Từ tháng cuối 2015, Thủ tướng Chính phủ Lào đã ban hành chuẩn nghèo theo hướng tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2020 đưa vấn đề nghèo của Lào theo hướng mới tiếp thu những thành tựu của các nước tiến bộ trên thế giới.

1.2. Thước đo nghèo

1.2.1. Thước đo nghèo theo góc độ thu nhập

1.2.1.1. Thước đo nghèo trên thế giới theo góc độ thu nhập

Ngân hàng thế giới đã xác định phương pháp đo lường đói nghèo mới theo hai cách: đo lường mức phúc lợi (xét về thu nhập hoặc chi tiêu) và sử dụng chuẩn nghèo theo cách tiếp cận “chi phí cho các nhu cầu cơ bản”.

Cách tiếp cận của Tổng cục Thống kê - Ngân hàng Thế giới sử dụng chi tiêu bình quân đầu người từ Khảo sát mức sống. Chuẩn nghèo được xây dựng theo cách tiếp cận chi phí cho các nhu cầu cơ bản, dựa trên hành vi tiêu dùng quan sát được của người nghèo. Chuẩn này bao gồm các khoản chi tiêu cho lương thực, thực phẩm và


phi lương thực, thực phẩm. Chuẩn nghèo của Tổng cục Thống kê - Ngân hàng thế giới ban đầu được xây dựng dựa trên một tiêu chuẩn là 2.100 Kcal/người/ngày. Tổng cục Thống kê - Ngân hàng thế giới đã xác định chuẩn nghèo lương thực thực phẩm của năm 2018 là 5.50 USD/ngày (tức là 165 USD/Tháng). Như vậy, nếu một hộ gia đình chi tiêu trung bình cho một đầu người dưới mức này thì được coi là hộ nghèo về lương thực thực phẩm.

1.2.1.2. Thước đo nghèo ở Lào theo góc độ thu nhập

Theo nghị định số 285/TTg trên, Chính phủ đưa ra chuẩn nghèo của Lào theo cá nhân, hộ, bản và huyện nghèo như sau [75]:

Người nghèo: Chuẩn nghèo của người nghèo là dựa vào mức thu nhập bình quân đầu người trong một tháng không phân biệt giới tính, tuổi thọ và đánh giá theo tiền kip:

Chuẩn nghèo bình quân cả nước là: 261.000kip/người/tháng. Chuẩn nghèo ở nông thôn miền núi là: 253.000kip/người/tháng. Chuẩn nghèo ở thành thị là: 284.000kip/người/tháng.

Hộ nghèo: Hộ được coi là nghèo là hộ có tất cả các khoản thu nhập cộng lại (hoặc vật chất có giá trị tương ứng) bình quân thấp hơn Chuẩn nghèo đã quy định ở phần 1 trên thì được khoảng 24 đô la Mỹ (1$=8.000 kip theo giá hiện hành), nếu quy ra một ngày thì được khoảng 0,8 đô la Mỹ trên một người một ngày, so với chuẩn nghèo của thế giới là 1 đô la Mỹ trên đầu người trong một ngày và phù hợp với chuẩn nghèo quốc gia. Với số tiền kip/người/tháng (khoảng 6.400 kip/người/ngày) này chỉ đủ mua gạo được khoảng 0,6 kg (15.000 kip/kg gạo loại rẻ nhất) cho một người trong một tháng và không thể cân đối để mua các thứ khác chẳng hạn: quần áo, nhà ở, học phí và mua thuốc chữa bệnh v.v... Ngoài ra còn hiểu về quan điểm hộ nghèo và hộ thoát nghèo theo sự chỉ đạo trong Sắc lệnh hướng dẫn về việc xây bản và cụm bản phát triển của Thủ tướng Chính phủ là: Ở nông thôn vùng dân tộc thiểu số hộ nghèo là hộ có thu nhập thấp hơn 250.000 kip/tháng. Còn ở thành thị và vùng lân cận hộ nghèo là hộ có thu nhập thấp hơn 450.000 kip/tháng. Ngoài thu nhập thấp ra hộ nghèo còn thiếu thốn các điều kiện cơ bản để sinh hoạt phục vụ đời sống bình thường như: Thiếu lương thực thực phẩm và đồ dùng cần thiết; Nhà ở không cố định hoặc là túp lều đổ nát; Không có đất đai trồng trọt hoặc làm ăn năng suất thấp không có kỹ thuật sản xuất, thiếu dụng cụ làm ăn, không có nghề nghiệp và không có thu nhập v.v...; Thiếu thốn đồ dùng trong gia đình như quần áo, đồ bếp, lối sống thiếu vệ sinh, không được học hành hoặc học vấn thấp.


Hộ thoát nghèo là hộ đủ ăn, không thiếu thốn những đồ dùng cần thiết, là hộ có thu nhập cao hơn chuẩn nghèo, có đủ quần áo mặc, có công ăn việc làm có thu nhập, có dụng cụ sản xuất và các điều kiện thuận lợi khác để phục vụ cuộc sống bình thường.

Bản nghèo: Bản được coi là nghèo có các chuẩn nghèo như sau:

- Bản nào có hộ nghèo từ 50% trở lên của tổng cộng hộ trong bản được coi là bản nghèo.

- Bản mà không có trường học tại bản hoặc có ở gần bản nhưng phải đi bộ mất thời gian nhiều hơn 1tiếng.

- Bản không có trạm y tế, hiệu thuốc mà dân bản phải đi bệnh viện huyện gần nhất với thời gian đi bộ ít nhất là 2 tiếng.

- Bản thiếu nước sạch dùng.

- Bản không có đường ô tô vào hoặc có đường nhưng chỉ đi được trong mùa khô. Huyện nghèo là: Huyện nào có bản nghèo chiếm từ 51% trở lên là huyện nghèo.

Tuy Lào có áp dụng một số chuẩn nghèo để làm cơ sở xác định sự nghèo của mình, mặc dù điều kiện thực tế của Lào rất phức tạp, điều kiện ăn ở sinh hoạt các vùng lãnh thổ khác nhau cả về số lượng, chất lượng, về kinh tế - xã hội, phong tục tập quán, trình độ văn hóa giáo dục, môi trường và sự nhận thức v.v... nhưng với chuẩn nghèo bình quân đầu người trong một ngày là 1 đô la Mỹ nếu quy đổi sang tiền Lào (Kip) được khoảng 8.000 kip, một tháng thu nhập khoảng 240.000 kip là hợp lý.

1.2.2. Thước đo nghèo đa chiều

1.2.2.1. Thước đo nghèo đa chiều trên thế giới

Chỉ số nghèo đa chiều phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và ở mỗi một đất nước với những đặc điểm khác nhau sẽ xuất hiện các yếu tố khác nhau. Nhìn chung các yếu tố như hạn chế về nguồn lực, trình độ học vấn thấp, dân số đông, bất bình đẳng giới, bệnh tật, sức khoẻ kém, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và các rủi ro khác, tác động tiêu cực của những chính sách vĩ mô đều làm trầm trọng thêm tỷ lệ nghèo đa chiều. Tuy nhiên, mức độ tiêu cực của các yếu tố kể trên không giống nhau ở mỗi lãnh thổ vì thế mà bản thân mỗi lãnh thổ tuỳ thuộc đặc điểm của địa phương mà lựa chọn các tiêu chí cũng như trọng số cho từng tiêu chí để xem xét, đánh giá tình trạng nghèo của địa phương mỗi nước.

Từ năm 2007, Alkire and Foster đã bắt đầu nghiên cứu về một cách thức đo lường mới về nghèo , đơn giản nhưng vẫn đáp ứng tính đa chiều của nghèo . Cách thức đo lường này đã được UNDP sử dụng để tính toán chỉ số Nghèo đa chiều (MPI) lần

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 03/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí