Thước Đo Nghèo Đa Chiều Của Nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào


đầu tiên được giới thiệu trong Báo cáo Phát triển con người năm 2010. Chỉ số tổng hợp này được tính toán dựa trên 3 chiều nghèo cơ bản là (i) nghèo về Y tế, (ii) nghèo về Giáo dục và (iii) nghèo về điều kiện sống với 10 chỉ số về phúc lợi; Chuẩn nghèo được xác định bằng 1/3 tổng số thiếu hụt.

Xét trong trường hợp phạm vi rộng là toàn cầu hai tác giảm Sabina Alkire và Maria Emma Santos (2010) là những tác giả đầu tiên xây dựng chỉ số nghèo đa chiều MPI và sau đó được đưa vào báo cáo của Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (2010). Trong công trình này, chỉ số MPI được tính toán từ 10 chỉ số con thể hiện cho ba khía cạnh bao gồm giáo dục, y tế và điều kiện sống của người dân. Nhưng xét ở cấp độ nhỏ hơn thì các chỉ số con dùng trong việc xây dựng MPI phải thay đổi để phù hợp và sát với thực tế địa phương. Chẳng hạn như Aasha Kapur Mehta (2010) đã tính toán MPI theo đơn vị huyện cho Ấn Độ. Trong công trình này ngoài các chỉ số con thông thường tác giả còn sử dụng thêm các chỉ số khác là cơ sở hạ tầng địa phương như vậy có thể nhận định cơ sở hạ tầng có ý nghĩa không nhỏ trong việc đánh giá chỉ số nghèo đa chiều tại địa phương này. Đặc biệt khi nhìn nhận cơ cấu của nghèo chiều tại Ấn Độ ta nhận ra mù chữ và tỷ lể trẻ sơ sinh bị chết là hai yếu tố đóng góp lớn nhất cho các chỉ số nghèo ở các địa phương tại Ấn Độ. Một ví dụ điển hình khác về nghèo đa chiều bị tác động bởi các yếu tố khác nhau tại các quốc gia khác nhau là trong công trình xây dựng các chỉ số nghèo đa chiều cho các quốc gia ở Châu Âu, nhà nghiên cứu Croline Dewilde đã cho rằng “không đủ tiền đi nghỉ trong năm” hoặc “không mời được bạn bè ăn uống tháng 1 lần” là một trong những chỉ số đo lường nghèo đa chiều.

Đã có một số quốc gia áp dụng phương pháp đo lường nghèo đa chiều để đo lường và giám sát nghèo ở cấp quốc gia dựa trên khung phân tích của Alkire và Foster.

Hình 1 1 3 chiều đo lường và 10 chỉ số tính toán MPI Bảng 1 1 Các tiêu chí 1

Hình 1.1: 3 chiều đo lường và 10 chỉ số tính toán MPI


Bảng 1.1: Các tiêu chí sử dụng đo lường trong MPI


Chiều

Tiêu chí


1. Giáo dục

1.1 Số năm đi học (người lớn)

1.2 Tình trạng đi học (trẻ em)


2. Y tế

2.1 Tỷ lệ tử vong ở trẻ em

2.2 Tình trạng dinh dưỡng


3. Điều kiện sống

3.1 Điện

3.2 Điều kiện vệ sinh

3.3 Nước uống hợp vệ sinh

3.4 Sàn nhà

3.5 Nhiên liệu nấu ăn

3.6 Sở hữu tài sản

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.


Cụ thể về các chỉ số tính toán MPI như sau:

- Thứ nhất là khía cạnh sức khỏe, được đo lường bằng hai chỉ báo:

+ Tình trạng tử vong ở trẻ em - hộ được coi là nghèo nếu trong hộ gia đình có một hay nhiều trẻ bị chết dưới 15 tuổi

+ Tình trạng dinh dưỡng - hộ được coi là nghèo nếu hộ gia đình có ít nhất một người lớn hoặc trẻ em bị suy dinh dưỡng.

Hiện nay, người ta nhận định tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em chủ yếu dựa vào 3 chỉ tiêu sau: Cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi, cân nặng theo chiều cao.

Hiện nay, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đề nghị lấy điểm ngưỡng ở dưới 2 độ lệch chuẩn (-2SD) so với quần thể tham chiếu NCHS (National Center for Health Statistics) để coi là nhẹ cân. Từ đó có thể chia thêm các mức độ sau đây:

Từ dưới -2SD đến -3SD : suy dinh dưỡng độ I Từ dưới -3SD đến -4SD : suy dinh dưỡng độ II Dưới -4SD : suy dinh dưỡng độ III

- Cân nặng theo tuổi: Cân nặng theo tuổi phản ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng nói chung, chỉ tiêu cân nặng theo tuổi phản ánh tốc độ phát triển của đứa trẻ. Đây là một chỉ tiêu nhạy, dễ thu thập và xử lý, thường được áp dụng trong các nghiên cứu được triển khai tại cộng đồng


- Chiều cao theo tuổi: Chiều cao theo tuổi thấp phản ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng kéo dài hoặc thuộc về quá khứ, làm cho đứa trẻ bị còi (stunting). Thường lấy điểm ngưỡng ở -2SD và -3SD so với quần thể tham chiếu NCHS.

- Cân nặng theo chiều cao: Cân nặng theo chiều cao thấp phản ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng ở thời kỳ hiện tại, gần đây, làm cho đứa trẻ ngừng lên cân hoặc tụt cân nên bị còm (wasting). Các điểm ngưỡng giống như hai chỉ tiêu trên

Người ta sử dụng các giới hạn "ngưỡng" (cut-off-point) các cách như sau:

- Theo % so với quần thể tham chiếu như các thang phân loại của Gomez và Jelliffe.

- Theo phân bố thống kê, thường lấy -2SD của số trung bình làm giới hạn ngưỡng. Từ đó người ta tính được tỷ lệ ở dưới hoặc trên các ngưỡng đó.

- Theo độ lệch chuẩn (Z score hay SD score):

Zscore hay SD score = Kích thước đo được - Số trung bình của quần thể tham chiếu / Độ lệch chuẩn của quần thể tham chiếu

- Thứ hai là khía cạnh giáo dục được đo lường bằng hai chỉ báo:

+ Số năm đi học - hộ được coi là nghèo nếu không có thành viên nào trong gia

đình học hết bậc tiểu học

+ Tình trạng đi học của trẻ em - hộ được coi là nghèo nếu có ít nhất một đứa trẻ trong độ tuổi đi học từ 1 - 8 tuổi) không được học.

- Thứ ba là khía cạnh mức sống được đo lường bằng sáu chỉ báo:

+ Điện - được coi là nghèo nếu hộ gia đình tiêu thụ điện trung bình hàng tháng dưới 50kW/tháng

+ Điều kiện vệ sinh - được coi là nghèo nếu hộ gia đình không có nhà vệ sinh đã được nâng cấp/ đủ tiêu chuẩn hoặc phải dùng chung (theo định nghĩa của Mục tiêu phát triển thiên niên kỉ)

+ Nước - được coi là nghèo nếu hộ gia đình không được dùng nước sạch hoặc nguồn nước sạch cách nhà 30 phút đi bộ (theo định nghĩa của Mục tiêu phát triển thiên niên kỉ)

+ Chỗ ở - được coi là nghèo nếu hộ gia đình có nền nhà bằng đất, cát hoặc phế thải xây dựng, hoặc nhà sàn

+ Nhiên liệu nấu ăn - được coi là nghèo nếu gia đình nấu bằng củi, than củi hoặc chất thải

+ Tài sản - được coi là nghèo nếu hộ gia đình bị thiếu hụt các tài sản: đài, ti vi,

điện thoại, xe đạp, xe máy.


Dựa vào chỉ báo, người ta tính điểm để xác định mức thiếu hụt của hộ gia đình. Việc tính điểm dựa trên qui định, ba khía cạnh sức khỏe, giáo dục và mức sống, mỗi khía cạnh chiếm trọng số như nhau là 1/3.

Mỗi khía cạnh sức khỏe và giáo dục có hai chỉ báo, vì vậy mỗi chỉ báo chiếm trọng số là 1/6. Khía cạnh mức sống hợp lí có sáu chỉ báo vì thế mỗi chỉ báo chiếm trọng số là 1/18. Nếu một người thiếu hụt từ 20 - 33.3% chỉ số thì được coi là dễ bị tổn thương dẫn đến nghèo đa chiều, còn nếu thiếu hụt từ 33,3% chỉ số trở lên được coi là nghèo đa chiều và nếu thiếu từ 50% tiêu chí trở lên người ta gọi là nghèo cùng cực. Dựa vào những quy định này, tổ chức OPHI tiến hành tính toán MPI cho các quốc gia tham gia.

1.2.2.2. Thước đo nghèo đa chiều của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

Về thước đo cái nghèo nói chung và nghèo đa chiều nói riêng ở CHDCND Lào. Tại Lào, qua nhiều thập niên, cách đo lường và đánh giá nghèo chủ yếu là thông qua thu nhập. Chuẩn nghèo được xác định dựa trên mức chi tiêu đáp ứng những nhu cầu tối thiểu và được quy ra thành tiền. Những người có thu nhập thấp dưới mức chuẩn nghèo đều được đưa vào diện hộ nghèo. Việc đánh giá nghèo đơn chiều như vậy tuy tạo thuận lợi trong việc xác định số người nghèo dựa trên chuẩn nghèo và ngưỡng nghèo. Tuy nhiên, thực tế cho thấy thu nhập thấp không thể phán ánh hết được các khía cạnh của nghèo ; nó chỉ phản ánh phần “lượng” mà chưa phản ánh được mức khốn và cơ cực của những người nghèo - cũng là phần “chất” mà chúng ta cần xem xét khi phân tích hay đánh giá một vấn đề.

Tại Lào, từ năm 2009 trở về trước, hộ nghèo được xác định là hộ gia đình có mức thu nhập (bình quân đầu người) thấp hơn hoặc bằng chuẩn nghèo. Tuy nhiên, từ giai đoạn 2010-2020, người nghèo, hộ nghèo đã được xác định dựa trên cả tiêu chí về thu nhập và mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội theo Quyết định số 285 QĐ-TTg và 406/QĐ-TTg Lào về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2010-2020.

Theo đó, ngoài tiêu chí thu nhập, còn có nhóm tiêu chí về các dịch vụ xã hội cơ bản, bao gồm năm dịch vụ: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin. Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản gồm 10 chỉ số: tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.


Việc áp dụng chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2010-2020 theo Quyết định số 285QĐ-TTg đã nhận diện hộ nghèo, hộ cận nghèo theo thu nhập và từng chiều, chỉ số thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Đây là cơ sở để địa phương xác định đối tượng thụ hưởng các chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội. Trên cơ sở đó, triển khai các chương trình, cơ chế đặc thù nhằm thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo đa chiều cả nước.

Nghèo đa chiều là vấn đề quốc tế khá mới và đang gây nhiều lúng túng cho các quốc gia mà trước đây chỉ dùng thu nhập để đánh giá nghèo. Hiện nay, các tổ chức quốc tế đã áp dụng khái niệm nghèo đa chiều và xây dựng các chỉ số đo lường nghèo đa chiều. Các chỉ số đa chiều phổ biến nhất là Chỉ số nghèo con người (Human Poverty Index - HPI) do Anand và Sen đề xuất (1997), Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) được Liên Hiệp Quốc sử dụng, và Chỉ số nghèo đa chiều (Multidimensional Poverty Index - MPI) do Đại học Oxford và UNDP áp dụng dựa trên phương pháp luận của Alkire và Foster (2007).

Trong luận án này, tác giả sẽ dựa trên chỉ số MPI được đưa ra bởi Tổ chức Oxford Poverty & Human Development Initiative (OPHI) trực thuộc Đại học Oxford, Anh (2007) đây là một trong những cơ quan quốc tế tiên phong xây dựng phương pháp đo lường nghèo đa chiều - phương pháp Alkire&Foster (AF). Phương pháp tiếp cận này đã được bước đầu áp dụng trên gần 20 quốc gia (như Mexico, Colombia, Việt Nam. Mạng lưới các quốc gia về Nghèo đa chiều đã được khởi xướng và điều hành bởi OPHI, trong đó có Lào. Những cuộc họp kỹ thuật trực tuyến giữa các quốc gia được tổ chức định kỳ nhằm chia sẻ và cập nhật thông tin về nghèo đa chiều ở mỗi quốc gia, đồng thời cũng là diễn đàn học tập và tạo liên kết hợp tác chia sẻ giữa các quốc gia.

Bộ chỉ báo và các chiều nghèo đa chiều gồm 10 chỉ báo đo lường cho 5 chiều nghèo nhiều hơn so với phương pháp AF 2 chiều. Trong đó các chỉ báo đo lường chiều y tế được thay thế, đồng thời chiều điều kiện sống có một số chỉ báo khác biệt. Tuy nhiên, trọng số chỉ báo và trọng số chiều vẫn giữ theo nguyên tắc ngang bằng nhau nhưng tính theo tổng điểm số là 100 (mỗi chiều thiếu hụt có số điểm là 20; mỗi chỉ báo thiếu hụt tương ứng với 10 điểm). Nghiên cứu này dựa vào hướng dẫn xây dựng các chiều và các chỉ báo cũng như cách tính toán chỉ số nghèo đa chiều của Alkire và Foster cũng như nguồn số liệu hiện có để xác định các chiều và các chỉ báo đo lường nghèo đa chiều. Theo đó, nghèo đa chiều được đo lường với 5 chiều thông qua 10 chỉ báo với ngưỡng thiếu hụt cũng như trọng số các chiều được tính toán dựa trên nguyên tắc ngang bằng nhau. Theo đó, mỗi chỉ báo thiếu hụt có điểm số là 0,1 và điểm số của mỗi chiều thiếu hụt là 0,2 với các chỉ báo được trình bày trong Bảng 1.2.


Bảng 1.2. Các chiều và chỉ báo của các chiều sử dụng đo lường nghèo đa chiều tại Lào

STT Chiều Chỉ báo từng chiều


Trình độ giáo dục của người lớn

1 Giáo dục

Tình trạng đi học của trẻ em

Thiếu hụt nếu

Hộ có bất kỳ thành viên nào đủ 15 tuổi chưa bao giờ đi học hoặc hiện nay không còn đi học và không có bằng tốt nghiệp THCS hoặc không có bằng nghề thì được coi là thiếu hụt

Hộ gia đình có bất kỳ thành viên nào trong độ tuổi 5-14 chưa bao giờ đi học hoặc hiện không còn đi học thì được coi là thiếu hụt

Những hộ gia đình có bất kỳ thành viên nào

Tiếp cận dịch vụ y trong 12 tháng qua có đi khám chữa bệnh ít nhất

2 Y tế

tế một lần trong đó không đủ hoặc thiếu tiền chi trả để khám/chữa bệnh thì được coi là thiếu hụt


3 Nhà ở

Tiếp cận BHYT Hộ có bất kỳ thành viên nào từ 6 tuổi trở lên không có BHYT thì được coi là thiếu hụt

Chất lượng nhà ở Nhà của hộ thuộc loại nhà tạm/nhà thiếu kiên cố/nhà đơn sơ được coi là thiếu hụt

Diện tích nhà bình Diện tích nhà ở bình quân đầu người dưới 20 m2 quân đầu người


4 Điều kiện sống


Nguồn nước sinh hoạt hợp vệ sinh

Nguồn nước hợp vệ sinh nếu hộ sử dụng các nguồn nước sau: nước máy vào nhà, nước máy công cộng, giếng khoan/giếng đào được bảo vệ, nước khe mó được bảo vệ, nước mưa, nước mua, Nếu không thuộc các nguồn này thì hộ được coi là thiếu hụt

Hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh gồm tự hoại, bán tự

Hố xí/nhà tiêu hợp hoại, cải tiến có ống thông hơi, hai ngăn, Nếu


5

Tiếp cận thông tin

vệ sinh


Sử dụng dịch vụ viễn thông


Tài sản phục vụ tiếp cận thông tin

hố xí/nhà tiêu của hộ không thuộc những loại trên thì được coi là thiếu hụt

Hộ gia đình không có thành viên nào sử dụng điện thoại (cố định/di động) và Internet thì được coi là thiếu hụt

Hộ gia đình không có tài sản nào trong số các tài sản được liệt kê sau đây thì được coi là thiếu hụt: tivi (màu/đen trắng), radio, máy tính (PC, laptop, tablet)

(Nguồn: Các chiều và chỉ báo của các chiều sử dụng đo lường nghèo đa chiều

tại Lào của chính phủ Lào)


Như vậy, NĐC được đo lường với 5 chiều với 10 chỉ báo và tổng điểm số thiếu hụt cao nhất là 1. Một hộ được coi là nghèo đa chiều khi thiếu hụt ít nhất 1/3 số chỉ báo được gia trọng (tức điểm số thiếu hụt từ 0,333 điểm trở lên). Chỉ số nghèo đa chiều nằm trong khoảng [0, 1]. Sử dụng các chiều và chỉ báo các chiều cũng như phương pháp tính MPI cho kết quả trong phần tiếp theo.

Rõ ràng rằng phương pháp đo lường nghèo đa chiều cuả AF là khá đơn giản song có dễ dàng thực hiện hay không thì lại là một bài toán khác. Vì có những hộ nghèo trước đó (khi chuẩn nghèo được đánh giá bằng thu nhập và chi tiêu) được hỗ trợ về nhiều mặt sẽ trở nên không thiếu hụt khi đo bằng các nhu cầu xã hội cơ bản, từ đó không thấy rõ được bức tranh nghèo. Mặt khác, do những tính toán của chỉ số MPI cho phép đo lường được cả bề rộng lẫn bề sâu của nghèo túng nên phương pháp này được đề xuất trong việc tính toán nghèo đa chiều tại Lào; mặc dù yếu tố thu nhập không được đề cập rõ ràng. Hai cách đánh giá nghèo dựa trên thu nhập và nghèo đa chiều đã cho hai bức tranh về diễn biến nghèo trên thế giới và việc tìm trọng tâm để giải quyết nghèo khác nhau. Cách tốt nhất là đưa đánh giá nghèo theo thu nhập và chi tiêu vào đánh giá nghèo đa chiều hoặc tìm ra cách tích hợp hai khía cạnh này. Và ở Lào, sự kết hợp này thể hiện khá rõ trong chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2011 - 2020. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều ở Lào năm 2020 giảm hơn một nửa so với năm 2011, từ 26,5% năm 2011 giảm xuống còn 18,3% năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều ở nông thôn cao hơn nhiều so với thành thị, nhưng khoảng cách đang giảm dần.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến nghèo đa chiều

Thông qua việc tìm hiểu các đề tài liên quan đến chủ đề nghiên cứu ở trong và ngoài nước, có nhiều nhận định khác nhau về các yếu tố ảnh hưởng tới nghèo. Ở từng khu vực, có những các yếu tố khác nhau dẫn đến nghèo bao gồm: trình độ văn hóa thấp, không có nghề nghiệp ốn định, thiếu vốn sản xuất, thiếu việc làm, thiếu đất đai canh tác… (Alkire, S., & Foster, 2011). Đó là những yếu tố ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân nghèo. Vì vậy, khi nghiên cứu về nghèo, cần chú ý đến các yếu tố trên để có những giải pháp cụ thế nhằm giúp người dân thoát nghèo.

1.3.1. Các chính sách và việc thực thi chính sách của Nhà nước

Hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất khẳng định rằng các chính sách và việc thực thi chính sách của Nhà nước tác động trực tiếp cùng chiều đến thực trạng nghèo đa chiều tại quốc gia đó. Cụ thể các chính sách như: việc làm/thất nghiệp, lạm phát, thu nhập và chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò rất quan trọng trong chính


sách phát triển kinh tế để phản ánh mức độ xóa nghèo đa chiều của nền kinh tế và thành công hay thất bại của mỗi quốc gia (Deutsch và Silber, 2005).

Thứ nhất, các chính sách đầu tư phát triển khu công nghiệp, công nghệ cao, vùng sản xuất chuyên canh, khu sản xuất tiểu thủ công nghiệp: quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu sản xuất công nghệ cao ở những vùng ven đô và khu vực nông thôn thuần túy tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi cho Nhà nước và nhà đầu tư như thuận lợi trong công tác quy hoạch, lợi thế giá thành/suất đầu tư, cơ sở hạ tầng xã hội phát triển, cải thiện kinh tế người nông dân tuy nhiên chính sách đầu tư này cũng khiến rất nhiều người dân nông thôn rơi vào tình trạng thất nghiệp, nghèo việc làm. Sau khi thu hồi đất sản xuất nông nghiệp cho xây dựng khu cụm công nghiệp, địa phương không có kế hoạch đào tạo nghề kịp thời hoặc đào tạo nghề không ăn khớp với nhu cầu thực tế khiến người dân rơi vào thế bị động. Bên cạnh đó, hoạt động của các khu công nghiệp thường mang theo hệ lụy, bất cập như không thực hiện đúng và đầy đủ các nguyên tắc thu gom và xử lý rác thải, gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí, là những yếu tố tạo nên tình trạng nghèo môi trường sống của người dân.

Thứ hai, chính sách vĩ mô trợ cấp, hỗ trợ khu vực sản xuất nông nghiệp (tín dụng ưu đãi, trợ cước, trợ giá, bảo hộ sản phẩm trong nước...) nhằm hỗ trợ người sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện về vốn, ưu thế về giá thành và thị trường cho sản phẩm nông nghiệp được sản xuất ra, từ đó nâng cao tỷ suất lợi nhuận, góp phần phát triển kinh tế hộ gia đình và các loại hình HTX, doanh nghiệp chế biến nông phẩm, nâng cao đời sống vật chất cho người nông dân .

Thứ ba, về các chính sách trực tiếp liên quan đến các hộ nghèo, vùng nghèo (Dạy nghề, khuyến nông, khuyến công và hỗ trợ chuyển giao khoa học kỹ thuật, kiến thức về tổ chức sản xuất, tổ chức cuộc sống, chính sách hỗ trợ ổn định sản xuất, việc làm cho hộ nghèo..): Việc thực hiện các chính sách này có ảnh hưởng tích cực trực tiếp đối với người nghèo nhằm cung cấp công cụ, trang bị được cho người nghèo khả năng tự thoát nghèo, khả năng tự vệ trước những khó khăn bất ngờ. Tuy nhiên nếu việc triển khai tổ chức thực hiện chính sách rời rạc, không đầy đủ và đồng bộ, thiếu tính minh bạch và không điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, từng nhóm người nghèo thì hiệu quả thực hiện không cao, không giải quyết được những vấn đề căn bản của nghèo đói.

Thứ tư, chính sách của nhà nước (năng lực thực thi, công cụ thực thi, quy trình thực thi...). Bộ máy tổ chức thực thi chính sách nhà nước nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến tổ chức thực thi chính sách trên địa bàn tỉnh. Trong quá trình tổ chức thực hiện

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/09/2022