Ảnh Hưởng Nồng Độ Của Znso4 Và Rosabor Đến Cường Độ Quang Hợp, Cường

- Diệp lục b: Phun Rosabor cho cây cà phê với nồng độ từ 0,15% đến 0,25% dẫn đến hàm lượng diệp lục b trong lá cà phê tăng từ 0,92 mg/g lá tươi lên 1,00 mg/g lá tươi và sự sai khác này có ý nghĩa thống kê ở mức 95% ở nồng độ từ 0,25% (phụ biểu 2.19). Hàm lượng diệp lục b ở các công thức phun phối hợp giữa ZnSO4 và Rosabor với nồng độ khác nhau cho cà phê vối giai đoạn kinh doanh trên đất bazan tăng từ 0,92 mg/g lá tươi ở công thức đối chứng đến 1,02 mg/g lá tươi ở công thức (B3Zn3) nhưng không có ý nghĩa thống kê, phun ZnSO4 với các nồng độ khác nhau cho cà phê với cho hàm lượng diệp lục b trong lá khác nhau nhưng không có ý nghĩa thống kê.

- Diệp lục tổng số: Phun Rosabor cho cây cà phê với nồng độ từ 0,15% đến 0,25% giúp hàm lượng diệp lục tổng số trong lá cà phê tăng từ 2,46 mg/g lá tươi lên 2,84 mg/g lá tươi và sự sai khác này có ý nghĩa thống kê ở mức 95% ở các nồng độ từ 0,20% trở lên (phụ biểu 2.20). Hàm lượng diệp tục tổng số của các công thức phun phối hợp ZnSO4 và Rosabor ở các nồng độ khác nhau cho cà phê sau hai năm cho kết quả trung bình thấp nhất đạt 2,41 mg/g lá tươi (B0Zn0) đến cao nhất đạt 3,03 mg/g lá tươi (B3Zn2). Mặc dù các công thức phun ZnSO4 và Rosabor với nồng độ khác nhau dẫn đến sự gia tăng hàm lượng diệp lục tổng số cao nhất là 25% so với đối chứng nhưng sự chênh lệch này không có ý nghĩa thống kê. Sự gia tăng hàm lượng diệp lục thường do hai nguyên nhân chủ yếu đó là chế độ dinh dưỡng tốt hơn hoặc cường độ ánh sáng yếu hơn buộc lá phải tăng cơ quan tiếp nhận ánh sáng hoặc do cả hai. Trong trường hợp này theo quan điểm của chúng tôi có thể nghiêng về chế độ dinh dưỡng bởi do mẫu lá cà phê được lấy đồng nhất trong cùng một thời điểm, cùng loại lá và khi đó có thể coi là cường độ ánh sáng khu vực thí nghiệm được xem là như nhau.

- Carotenoit: Tương tự, các công thức phun kết hợp giữa ZnSO4 và Rosabor nồng độ khác nhau cho cà phê vối làm tăng hàm lượng carotenoit trong lá từ 0,83 mg/g lá tươi (BoZn0) đến 1,06 mg/g lá tươi (B3Zn3) nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Chức năng quan trọng nhất của carotenoit là bảo vệ diệp lục, hạn chế những tác động bất lợi của bức xạ sóng ngắn cường độ mạnh của ánh sáng mặt trời. Khi phunbổ sung ZnSO4 và Rosabor cho cà phê vối giai đoạn kinh doanh

Tương quan giữa hàm lượng carotenoit với năng suất

cà phê nhân

y = 11.202x2 - 19.476x + 11.713

R2 = 0.8534

3.80

3.60

3.40

3.20

3.00

0.80

0.90

1.00

1.10

Hàm lượng carotenoit trong lá (mg/g lá tươi)

Năng suất cà phê nhân (tấn/ha)

đã làm tăng khả năng chịu cường độ ánh sáng mạnh tốt hơn nhờ việc gia tăng hàm lượng carotenoit trong lá.



Đồ thị 3.7: Tương quan giữa hàm lượng carotenoit trong lá và năng suất cà phê nhân

Như vậy, y = 11,202 x2 - 19,476 x + 11.713 là đường chuẩn cho quan hệ giữa hàm lượng carotenoit trong lá cà phê vối giai đoạn kinh doanh với năng suất cà phê nhân (r = 0,92) và đây là mối tương quan khá chặt. Mối tương quan này thể hiện hàm lượng carotenit trong lá cà phê ảnh hưởng ít hơn đến năng suất cà phê nhân như hàm lượng kẽm và bo.

Sau hai năm thí nghiệm phun bổ sung ZnSO4 và Rosabor với nồng độ khác nhau cho cây cà phê vối giai đoạn kinh doanh trên đất bazan tại Đắk cho thấy chưa có sự khác biệt về hàm lượng diệp lục b, diệp lục tổng số, carotenoit trong lá cà phê ngoại trừ hàm lượng diệp lục a.

3.3.3.2. Ảnh hưởng nồng độ của ZnSO4 và Rosabor đến cường độ quang hợp, cường

độ thoát hơi nước, độ mở khí khổng, nồng độ CO2 trong gian bào

Kết quả theo dõi và đo đếm các chỉ tiêu khi phun ZnSO4 và Rosabor với nồng độ khác nhau cho cà phê vối giai đoạn kinh doanh trên đất bazan tại Đắk Lắk về cường độ quang hợp, cường độ thoát hơi nước, độ mở khí khổng và nồng độ CO2 trong gian bào trung bình sau hai năm thí nghiệm bằng máy TPS-2 được ghi nhận tại (bảng 3.21) cho thấy:

y = 0.0057x2 - 0.1254x + 3.8071

Tương quan giữa CĐQH và năng suất cà phê nhân R2 = 0.8718

3.80


3.60


3.40


3.20

3.00

13.00

15.00

17.00

19.00

21.00

23.00

Cường độ quang hợp (μmol/m2/s)

- Cường độ quang hợp: Các công thức thí nghiệm phun kết hợp giữa ZnSO4 và Rosabor với nồng độ khác nhau cho cà phê vối giai đoạn kinh doanh cho thấy cường độ quang hợp thấp nhất là 13,83 μmol/m2/s (B0Zn0 và B0Zn1) đến cao nhất đạt 21,77 μmol/m2/s (B3Zn2). Mặc dù có 4 công thức cho kết quả đo CĐQH gia tăng từ 38% (B2Zn2) đến 57% (B3Zn2) so với đối chứng nhưng sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê. Cường độ quang hợp trong lá cà phê vối giai đoạn kinh doanh trên đất bazan mà chúng tôi ghi nhận được qua 2 năm 2012 và 2013 của các công thức phun ZnSO4 và Rosabor với nồng độ khác nhau trên nền phân bón theo quy trình của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cao hơn kết quả của tác giả Phan Văn Tân, (2001) [65] khi nghiên cứu về CĐQH của lá cà phê vối tại Đắk Lắk đạt trung bình (14,68 μmol/m2/s). Sự khác nhau này có thể do trong quá trình tiến hành đo cường độ quang hợp trong lá cà phê vối của tác giả Phan Văn Tân và của chúng tôi bằng các loại máy đo chuyên dụng khác nhau dẫn đến kết quả khác nhau mặc dù thời điểm đo trong ngày và chế độ bón phân là tương đương.


Năng suất cà phê nhân (tấn/ha)

Đồ thị 3.8: Tương quan giữa cường độ quang hợp và năng suất cà phê nhân khi phun ZnSO4 và Rosabor

Như vậy, y = 0,0057 x2 - 0,1254 x +3,8071 là đồ thị thể hiện tương quan giữa cường độ quang hợp của lá cà phê vối giai đoạn kinh doanh trồng trên đất bazan với năng suất cà phê nhân khi phun ZnSO4 và Rosabor với nồng độ khác nhau là rất chặt (r = 0,93). Trong thí nghiệm này, tương quan giữa cường độ quang hợp và

năng suất cà phê nhân chặt hơn so với nghiên cứu của Trịnh Nguyên Vũ, (2013) [85] với (r = 0,90).

Bảng 3.21: Ảnh hưởng nồng độ của ZnSO4 và Rosabor đến cường độ quang hợp, cường độ thoát hơi nước, độ mở khí khổng, nồng độ CO2 trong gian bào


Các chỉ tiêu theo dõi


Công thức

Cường độ QH (μmol/m2/s)

Cường độ THN (mmol/m2/s)

Độ mở KK (mmol/m2/s)

Nồng độ CO2 (μmol/m2/s)

B0Zn0 (đ/c)

13,83

0,99

1.141

341

B0Zn1

13,83

1,06

1.160

331

B0Zn2

15,97

1,01

1.158

335

B0Zn3

14,63

1,08

1.263

339

B1Zn0

16,00

1,04

1.267

343

B1Zn1

16,90

1,05

1.217

350

B1Zn2

15,70

0,98

1.233

345

B1Zn3

17,67

0,95

1.212

334

B2Zn0

17,06

0,98

1.375

352

B2Zn1

17,33

1,06

1.253

339

B2Zn2

19,06

1,07

1.341

360

B2Zn3

19,30

1,10

1.330

371

B3Zn0

16,07

1,01

1.295

333

B3Zn1

18,00

1,07

1.252

335

B3Zn2

21,77

1,46

1.321

354

B3Zn3

19,97

1,31

1.398

364

CV(%)

15,67

19,79

15,82

5,83

LSD0,05 (B)

NS

NS

NS

NS

LSD0,05 (Zn)

NS

NS

NS

NS

LSD0,05 (B*Zn)

NS

NS

NS

NS

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.

Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật bón phân cho cây cà phê vối Coffea canephora Pierre giai đoạn kinh doanh trên đất bazan tại Đắk Lắk - 16

- Độ mở khí khổng: Độ mở khí khổng của lá cà phê vối khi đo tại địa điểm của các công thức phun ZnSO4 và Rosabor với nồng độ khác nhau cho cà phê vối giai đoạn kinh doanh trên đất bazan dao động rất lớn. Độ mở khí khổng của các công thức phun kết hợp ZnSO4 và Rosabor với nồng độ khác nhau cho cà phê vối

giai đoạn kinh doanh trên đất bazan dao động từ 1.158 mmol/m2/s (B0Zn0) đến

1.398 mmol/m2/s (B3Zn3). Mặc dù có nhiều công thức có kết quả đo độ mở khí khổng cao hơn đối chứng từ 14 % đến 23% nhưng sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê. Ở mức dao động dưới, tương đương với kết quả của Trịnh Nguyên Vũ, (2013) [85] khi nghiên cứu ảnh hưởng của nano chitosan với các nồng độ khác nhau đến cường độ quang hợp trong lá cà phê vối tại Đắk Nông (1.143 mmol/m2/s), nhưng ở mức dao động trên lại cao hơn đôi chút.

- Cường độ thoát hơi nước và nồng độ CO2 trong gian bào: Cường độ thoát hơi nước và nồng độ CO2 trong gian bào của cây trồng nói chung và cà phê nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào giống, diện tích lá, cường độ ánh sáng khi tiến hành đo và chế độ dinh dưỡng. Chúng tôi tiến hành đo CĐTHN và nồng độ CO2 trong gian bào của lá cà phê vối giai đoạn kinh doanh của các công thức thí nghiệm song song với độ CĐAS, số liệu ghi nhận tại bảng 3.21 cho thấy: Cường độ thoát hơi

nước lá cà phê của các công thức phun ZnSO4 và Rosabor với các nồng độ khác nhau dao động từ 0,99 mmol/m2/s đến 1,36 mmol/m2/s và nồng độ CO2 trong gian bào thấp nhất đạt 324 (μmol/m2/s) và cao nhất đạt 365 (μmol/m2/s), sự sai khác này

không có ý nghĩa thống kê. Theo nghiên cứu của Phan Văn Tân, (2001) [66] về nồng độ CO2 trong gian bào của lá cà phê vối tại Đắk Lắk cho rằng vào thời điểm bình minh lượng CO2 thải ra thấp mặc dù lúc này nhiệt độ không khí thấp do suốt đêm quá trình hô hấp của lá diễn ra trong khi khí khổng đóng.

Thí nghiệm phun bổ sung ZnSO4 và Rosabor với nồng độ khác nhau cho cây cà phê vối giai đoạn kinh doanh trên đất bazan tại Đắk Lắk trên nền phân lân và phân chuồng theo quy trình của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn sau hai năm 2012 và 2013 cho thấy chưa có sự khác biệt về cường độ quang hợp, cường độ thoát hơi nước, độ mở khí khổng và nồng độ CO2 trong gian bào.

3.3.3.3. Ảnh hưởng nồng độ của ZnSO4 và Rosabor đến chiều dài cành dự trữ, số cành khô, tốc độ ra đốt trong mùa mưa

Bảng 3.22: Ảnh hưởng nồng độ của ZnSO4 và Rosabor đến chiều dài cành dự trữ, số cành khô, tốc độ ra đốt trong mùa mưa

Các chỉ tiêu theo dõi


Công thức

Dài dài cành

dự trữ (cm)

Tốc độ ra đốt

(đốt/6 tháng)

Số đốt/cành

(đốt)

Số cành khô

/cây (cành)

B0Zn0 (đ/c)

35,62

5,31

7,93

12,71

B0Zn1

35,99

5,37

8,08

12,25

B0Zn2

37,25

5,68

8,16

12,22

B0Zn3

36,78

5,38

8,05

12,01

B1Zn0

37,42

5,76

8,20

11,77

B1Zn1

37,85

5,65

8,15

12,13

B1Zn2

36,74

5,61

8,30

11,53

B1Zn3

37,94

5,66

8,42

11,52

B2Zn0

37,25

5,31

8,48

12,02

B2Zn1

36,34

5,33

8,02

11,76

B2Zn2

40,68

6,37

9,04

11,44

B2Zn3

40,64

6,29

9,11

11,20

B3Zn0

38,47

5,35

8,61

11,72

B3Zn1

37,06

5,77

8,45

11,28

B3Zn2

41,45

6,34

9,79

10,59

B3Zn3

40,16

6,30

9,54

10,64

CV(%)

10,01

10,56

11,97

10,85

LSD0,05 (B)

NS

NS

NS

NS

LSD0,05 (Zn)

NS

NS

NS

NS

LSD0,05(B*Zn)

NS

NS

NS

NS

Tốc độ ra đốt của cây cà phê năm sau phụ thuộc vào nhiều yếu tố, một trong những yếu tố tác động mạnh nhất là chế độ dinh dưỡng. Phân tích số liệu về chiều dài cành dự trữ, tốc độ ra đốt trong 6 tháng mùa mưa và số cành khô trên cây của các công thức phun ZnSO4 và Rosabor với nồng độ khác nhau cho cà phê vối ghi nhận tại (bảng 3.22) cho thấy:

- Chiều dài cành dự trữ: Cà phê là cây dài ngày, khả năng cho năng suất cao và ổn định năm sau phụ thuộc rất lớn vào lượng phân bón cho cây năm trước để tạo một lượng cành dự trữ nhất định. Số liệu về chiều dài cành dự trữ của các công thức phun ZnSO4 hoặc Rosabor ở các nồng độ khác nhau cũng như phun kết hợp ZnSO4 và Rosabor với nồng độ khác nhau cho cà phê vối giai đoạn kinh doanh trên đất bazan dao động từ 35,62 cm (B0Zn0) đến 41,45 cm (B3Zn2) nhưng sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu xác định liều lượng kẽm cho cà phê chè catimor trên đất bazan giai đoạn kiến thiết cơ bản tại Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm Nghiệp Tây nguyên năm 2000 - 2001 của Tôn Nữ Tuấn Nam và Bùi Văn Khánh, (2002) [48] với 7 công thức thí nghiệm phun ZnSO4 0,4% và bón 5 mức từ 20 đến 100 kg ZnSO4/ha trên nền phân bón theo quy trình của Bộ NN&PTNT cho rằng: Kẽm ảnh hưởng rõ nét đến chiều cao cây, số cành và chiều dài cành rất có ý nghĩa thống kê, nhưng phun ZnSO4 0,4% và bón 5 mức từ 20 đến 100 kg ZnSO4/ha cho thấy tốc độ sinh trưởng gần tương đương nhau, đặc biệt là các mức bón kẽm có ảnh hưởng không rõ nét đến tốc độ sinh trưởng cà phê con. Tác giả cũng cho rằng nếu xử lý các mức kẽm hàm lượng cao sẽ gây hiện tượng thừa kẽm.

- Tổng số đốt/cành và tốc độ ra đốt: Phun phối hợp ZnSO4 và Rosabor với nồng độ khác nhau cho cà phê vối giai đoạn kinh doanh trên đất bazan qua 6 tháng mùa mưa cho kết quả về số đốt/cành và tốc độ ra đốt khác nhau. Số liệu trung bình sau hai năm thí nghiệm về số đốt/cành dao động từ 8,03 đốt đến 9,79 đốt và tốc độ ra đốt dao động từ 5,31 đốt đến 6,34 đốt. Có 5 công thức phun ZnSO4 và Rosabor có tốc độ ra đốt và số đốt/cành cao hơn đối chứng tương ứng 12% và 11% trở lên nhưng không có ý nghĩa thống kê ở mức 95%. Về tốc độ ra đốt trong 6 tháng mùa mưa theo nghiên cứu của tác giả Bùi Huy Hiền và cộng sự, (2007) [19] về hiệu quả của phân bón trung và vi lượng đối với cà phê vối tại Đắk Lắk trong 4 năm từ 1999

đến 2002 cho rằng: Nếu bón 12 kg kẽm/ha (nền 300 kg N + 100 kg P2O5 + 300 kg K2O) cho kết quả số đốt tăng/cành/6 tháng mùa mưa trung bình từ 4,95 đến 5,50 đốt, thấp hơn so với mức tăng trong nghiên cứu của chúng tôi mặc dù lượng phân đạm, lân và kali là cao hơn nhưng tác giả sử dụng ZnSO4 bón vào đất.

- Số cành khô/cây: Theo dõi số cành khô trên cây của các công thức thí nghiệm cho thấy phun bổ sung kết hợp ZnSO4 và Rosabor với nồng độ tăng dần đã giảm được tỉ lệ khô cành của cây cà phê vối giai đoạn kinh doanh thấp nhất là 4% ở công thức (B0Zn1) và cao nhất là 17% ở công thức (B3Zn2) nhưng sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê so với đối chứng. Nguyễn Công Vinh và Lê Xuân Ánh, (2007) [83] khi nghiên cứu về vai trò của bo và kẽm đối với cà phê chè catimor trên đất nâu đỏ bazan tại Phủ Quỳ, Nghệ An trong 2 năm 2004 - 2005 trên nền phân bón (300 kg N + 100 kg P2O5 + 300 kg K2O) cho rằng nếu bón 10 kg H3BO3 + 20 kg ZnSO4 /ha/năm đã có sự thay đổi cao hơn về số cành/cây, chiều cao cây và đường kính tán so với mức bón thấp hơn và đối chứng không bón nhưng không rõ nét.

3.3.4. Ảnh hưởng nồng độ của ZnSO4 và Rosabor đến năng suất, tỉ lệ hạt cà phê nhân xuất khẩu

3.3.4.1. Ảnh hưởng nồng độ của ZnSO4 và Rosabor đến khối lượng 100 quả tươi, tỉ lệ tươi/nhân và năng suất cà phê tươi

Cà phê vối là cây thụ phấn chéo, số chùm quả và tổng số quả trên cây rất lớn, tỉ lệ đậu quả phụ thuộc rất nhiều vào khí hậu thời tiết và chế độ dinh dưỡng giai đoạn ra hoa, thụ phấn và trong suốt quá trình từ khi quả hình thành đến chín.

- Số chùm quả trên cây: Cà phê vối là cây giao phấn, hàng năm cây ra rất nhiều chùm quả trên cây phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó dinh dưỡng đóng vai trò hết sức quan trọng. Kết quả theo dõi về số chùm quả ở các công thức phun ZnSO4 nồng độ từ 0,3% đến 0,5%; Rosabor nồng độ từ 0,15% đến 0,25% cũng như các công thức có sự kết hợp giữa ZnSO4 và Rosabor với nồng độ khác nhau cho cà phê vối giai đoạn kinh doanh trên đất bazan tại Đắk Lắk sau 2 năm thí nghiệm đã có ảnh hưởng đến số chùm quả trên cây cà phê dao động từ 419 chùm đến 444 chùm nhưng sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê.

Xem tất cả 208 trang.

Ngày đăng: 07/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí