Bảo Hiểm Theo Chỉ Số Năng Suất Cho Cây Cà Phê Tỉnh Đắk Lắk


sẵn lòng và hành vi ý định, cụ thể là hành vi sẵn lòng tỏ ra hữu ích trong việc dự đoán hành vi của những cá nhân có tương đối ít kinh nghiệm nhưng khi kinh nghiệm tăng lên, hành vi ý định trở nên có ảnh hưởng hơn. Cụ thể là hiện nay sản phẩm bảo hiểm cây cà phê theo chỉ số năng suất chưa có nên hầu hết hộ nông dân không có kinh nghiệm về sản phẩm này. Do đó, nghiên cứu này sử dụng yếu tố hành vi sẵn lòng tham gia bảo hiểm cây cà phê theo chỉ số năng suất của hộ nông dân tỉnh Đắk Lắk là biến phụ thuộc.

2.5.3. Lý thuyết nhận thức rủi ro


Lý thuyết nhận thức rủi ro (Theory of Perceived Risk – TPR) (Bauer, R.A., 1960) được định nghĩa bao gồm 2 thành phần chính là xác suất của một mất mát và cảm giác chủ quan của hậu quả xấu. Ở đây chỉ nói tóm tắt về rủi ro trong nông nghiệp.

Rủi ro nông nghiệp

Theo Jaffee và cộng sự (2010), rủi ro và sự không chắc chắn trong nông nghiệp rất phổ biến và đa dạng trong nông nghiệp và các chu i cung ứng nông nghiệp. Điều này bắt nguồn từ một loạt các yếu tố bao gồm: sự biến đổi bất thường của thời tiết; sự thay đổi quá trình sinh học; sự bất ổn của sản xuất cây trồng theo m a vụ và chu kỳ thị trường; sự phân chia địa lý sản xuất và khâu sử dụng sản phẩm; nền kinh tế chính trị riêng biệt và sự bất ổn của của ngành thực phẩm và nông nghiệp cả trong và ngoài nước.

Rủi ro nông nghiệp là khả năng xảy ra sự cố bất ngờ và tạo ra một kết quả xấu, không theo kế hoạch, thường dẫn đến tổn thất (Choudhary Vikas và cộng sự, 2015).

Rủi ro trong nông nghiệp có thể được phân loại thành 2 nhóm chính là rủi ro tài sản và rủi ro cá nhân. Tiếp theo đó, rủi ro đối với tài sản nông nghiệp có thể được chia thành ba nhóm chính: rủi ro tự nhiên, rủi ro xã hội và rủi ro kinh tế (Ray.P.K, 2001).


2.6. Lý thuyết bảo hiểm cây trồng

2.6.1. Bảo hiể c trồng


Theo Mahul và Stutley (2010), bảo hiểm cây trồng là bảo hiểm bồi thường tài chính cho thiệt hại về sản xuất hoặc tổn thất từ những rủi ro cụ thể hoặc nhiều rủi ro, như mưa đá, bão lốc, lửa hoặc lũ lụt. Hầu hết bảo hiểm cây trồng bồi thường cho sự mất mát sản lượng của cây trồng. Bảo hiểm cây trồng được mua bởi các hộ nông dân sản xuất nông nghiệp và được chính phủ trợ cấp.

Theo Iturrioz Ramiro (2009), bảo hiểm nông nghiệp là sản phẩm bảo hiểm liên quan tới nông nghiệp. Bảo hiểm nông nghiệp bao gồm bảo hiểm cây trồng, bảo hiểm chăn nuôi, bảo hiểm lâm nghiệp và bảo hiểm nuôi trồng thủy sản. Hình thức bảo hiểm nông nghiệp phát triển nhất là bảo hiểm cây trồng chiếm 90% thị phần bảo hiểm nông nghiệp trên toàn thế giới năm 2008.

Dựa vào các nghiên cứu của Iturrioz Ramiro (2009), Mahul và Stutley (2010) và Nghị định 58/2018/NĐ-CP. Bảo hiểm cây trồng có 6 loại và được phân thành 2 nhóm dựa trên phương pháp xác định cách tính toán các yêu cầu bồi thường sau:

Nhóm 1: Bảo hiểm truyền thống

(i) B o hi ọi của thi t hại (NPCI)

Bảo hiểm bồi thường thiệt hại dựa vào thiệt hại năng suất mùa màng, bồi thường bảo hiểm được tính bằng cách đo lường phần trăm thiệt hại ngay sau khi thiệt hại xảy ra. Thiệt hại đo được tại hiện trường, được áp dụng cho số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trước. Số tiền bảo hiểm có thể dựa trên chi phí sản xuất hoặc dựa trên doanh thu dự kiến. Trường hợp thiệt hại không thể được đo lường chính xác ngay sau khi mất, việc đánh giá có thể được hoãn lại cho đến cuối mùa vụ. Bảo hiểm bồi thường thiệt hại dựa vào tên thiệt hại được biết đến nhiều nhất với mưa đá, nhưng cũng được sử dụng cho các sản phẩm bảo hiểm nguy hiểm có tên khác (như sương giá và lượng mưa quá mức) (Iturrioz Ramiro, 2009; Mahul và Stutley, 2010; Nghị định 58/2018/NĐ-CP).

(ii) B o hi rủi ro (MPCI)


Bảo hiểm cây trồng đa rủi ro là bảo hiểm năng suất mùa màng (ví dụ, tấn/ ha) được thiết lập theo tỷ lệ phần trăm của năng suất trung bình những mùa vụ trước của hộ nông dân. Năng suất được bảo hiểm thường nằm trong khoảng từ 50 đến 70 năng suất trung bình tại trang trại. Nếu sản lượng thực tế nhỏ hơn năng suất được bảo hiểm, thì tiền bồi thường được trả bằng với chênh lệch giữa năng suất thực tế và sản lượng được bảo hiểm rồi nhân với giá trị được thỏa thuận trước. Bảo hiểm cây trồng dựa trên năng suất thường bảo vệ chống lại nhiều nguy hiểm, có nghĩa là nó bao gồm nhiều nguyên nhân khác nhau làm giảm năng suất (thường là khó xác định nguyên nhân chính xác của tổn thất). Phí bảo hiểm cho loại bảo hiểm này nằm trong khoảng từ 5 đến 20% số tiền bảo hiểm (tùy thuộc vào loại cây trồng), khu vực mà nó sẽ được trồng và mức độ mở rộng của bảo hiểm (Iturrioz Ramiro, 2009; Mahul và Stutley, 2010; Nghị định 58/2018/NĐ-CP).

(iii) B o hi m doanh thu mùa màng (CRI)

Bảo hiểm doanh thu mùa màng bảo vệ các bên được bảo hiểm khỏi hậu quả của năng suất thấp, giá thấp hoặc kết hợp cả hai. Để đảm bảo cho chủ sở hữu chính sách một mức doanh thu nhất định, công ty bảo hiểm bảo vệ chủ sở hữu khỏi sự suy giảm năng suất và cả những biến động bất lợi trong giá cả cây trồng. Sản lượng được bảo đảm được xác định bằng tỷ lệ phần trăm của sản xuất trước đây của nhà sản xuất và giá được bảo đảm có thể là giá thị trường trong tương lai của vụ mùa trong tháng thu hoạch hoặc giá thực hiện của tùy chọn giá cơ sở. Nếu sản lượng thực tế mà nhà sản xuất nhận được, được đưa ra bằng sản phẩm của sản lượng thực tế và giá thị trường giao ngay tại thời điểm thu hoạch, nhỏ hơn số tiền được bảo đảm, công ty bảo hiểm sẽ trả tiền chênh lệch. Nó thực chất là bảo hiểm MPCI với một hàng rào giá. Đây là một sản phẩm tương đối mới và tránh xa các sản phẩm truyền thống hơn, trong đó lợi ích không thể bảo đảm là quy mô của cây trồng đối với các sản phẩm mà lợi ích là doanh thu. Sản phẩm này hiện được áp dụng cho cây ngô và bán giới hạn tại Mỹ (Iturrioz Ramiro, 2009).

Nhóm 2: Bảo hiểm chỉ số

(i) B o hi m theo chỉ số ă ất khu vực (AYII)


Bảo hiểm chỉ số năng suất khu vực được phát triển lần đầu tiên ở Thụy Điển vào đầu những năm 1950, được triển khai ở Ấn Độ từ năm 1979 và ở Hoa Kỳ từ năm 1993 (Mahul và Stutley 2010). AYII bồi thường dựa trên năng suất trung bình (thu hoạch được) của một khu vực như một quận hoặc huyện. Năng suất bảo hiểm được thiết lập theo tỷ lệ phần trăm của năng suất trung bình khu vực (thường là 50%-90% của năng suất trung bình khu vực). Một khoản bồi thường được trả nếu năng suất trung bình thu hoạch được của khu vực thấp hơn năng suất được bảo hiểm, bất kể năng suất thực tế trên trang trại chính sách của chủ sở hữu. Loại bảo hiểm chỉ số này yêu cầu lịch sử dữ liệu năng suất khu vực mà trên đó năng suất trung bình bình thường và năng suất bảo hiểm có thể được thiết lập. Thanh toán thường được thực hiện sáu tháng sau khi vụ m a được thu hoạch (Iturrioz Ramiro, 2009; Mahul và Stutley, 2010; Nghị định 58/2018/NĐ-CP).

(ii) B o hi m theo chỉ số thời tiết (WII)

Bảo hiểm chỉ số thời tiết mùa màng được bảo lãnh thương mại từ năm 2002 (Mahul và Stutley, 2010). Sản phẩm được thiết kế xung quanh việc xây dựng một chỉ số có tương quan cao với các trải nghiệm mất mát. Việc bồi thường dựa trên việc thực hiện một thông số thời tiết cụ thể được đo trong một khoảng thời gian định trước tại một trạm thời tiết cụ thể. Chỉ số phổ biến nhất trong nông nghiệp là lượng mưa. Bảo hiểm có thể được cấu trúc để bảo vệ chống lại việc thực hiện chỉ số quá cao hoặc thấp đến mức chúng được dự kiến sẽ gây ra thiệt hại cây trồng. Thông thường, một công ty bảo hiểm sẽ đưa ra một hợp đồng sẽ chỉ định chỉ số. Ví dụ: lượng mưa trong khoảng thời gian cụ thể và nơi sẽ được đo, ngưỡng, tổng số tiền bảo hiểm và mọi giới hạn bồi thường. Một khoản bồi thường được trả bất cứ khi nào giá trị nhận ra của chỉ số vượt quá ngưỡng quy định (ví dụ: khi bảo vệ chống lại lượng mưa quá nhiều) hoặc khi chỉ số nhỏ hơn ngưỡng (ví dụ: khi bảo vệ chống lại lượng mưa quá ít). Tiền bồi thường được tính dựa trên số tiền bảo hiểm được thỏa thuận trước trên m i đơn vị của chỉ số (Iturrioz Ramiro, 2009; Mahul và Stutley, 2010; Nghị định 58/2018/NĐ-CP).

(iii) B o hi m theo chỉ số NDVI/v tinh (NDVI/SI)


Với loại bảo hiểm này, các chỉ số được xây dựng bằng hình ảnh viễn thám theo chu i thời gian. Ví dụ, có các ứng dụng của dải sóng hồng ngoại màu sai cho bảo hiểm chỉ số đồng cỏ, trong đó khoản thanh toán dựa trên chỉ số thực vật khác biệt được chuẩn hóa, liên quan đến thâm hụt độ ẩm đến suy thoái đồng cỏ (Iturrioz Ramiro, 2009; Mahul và Stutley, 2010; Nghị định 58/2018/NĐ-CP). Bảo hiểm này đã được áp dụng cho đồng cỏ ở một vài quốc gia như Mexico, Canada, Tây Ban Nha (Iturrioz Ramiro, 2009).

2.6.2. Bảo hiể c trồng ở c c nước đang h t triển


Theo World Bank (2011), tiếp cận bảo hiểm cây trồng là rất hạn chế ở các nước đang phát triển. Do đó, việc cung cấp loại bảo hiểm này là một thách thức đối với các công ty bảo hiểm, chi phí bảo hiểm là nguyên nhân hộ nông dân không thể tham gia. Các công ty bảo hiểm thường tập trung vào các rủi ro đô thị và công nghiệp và do đó thường không có mạng lưới ở khu vực nông thôn. Khi bảo hiểm cây trồng được cung cấp, rủi ro (thời tiết, sâu bệnh,...) thường có mối tương quan không gian cao dẫn đến khó khăn về mặt tài chính cho các công ty bảo hiểm. Ngoài ra, thị trường tái bảo hiểm quốc tế còn do dự với bảo hiểm cây trồng, mặc d điều này đã ít hạn chế hơn trong những năm gần đây.

Bảo hiểm cây trồng đã xuất hiện ở một số quốc gia trên thế giới (Phụ lục 1). Những kinh nghiệm thu được trong thế kỷ qua về phát triển bảo hiểm cây trồng sẽ cung cấp cho chúng ta một số bài học kinh nghiệm và gợi ý như sau:

+ Bảo hiểm NPCI (chủ yếu là mưa đá và hỏa hoạn) đã hoạt động bền vững về tài chính trong hơn một thế kỷ, thường không có sự trợ giúp của chính phủ.

+ Bảo hiểm MPCI có lợi thế là một chính sách tương đối chuẩn, không phân biệt loại cây trồng. Các chính phủ đã bị thu hút bởi bảo hiểm cây trồng dựa trên năng suất và tính chất thống nhất của sản phẩm, nhưng MPCI có một số vấn đề lớn về điều chỉnh tổn thất, rủi ro đạo đức, lựa chọn bất lợi và chi phí vận hành cao.

+ AYII là một sản phẩm được thiết lập tương đối tốt, mặc dù không phổ biến. Ấn Độ đã trợ cấp một chương trình AYII trong 20 năm với tên gọi Bảo hiểm Nông nghiệp Quốc gia Ấn Độ (NAIS).


+ WII là một sự phát triển tương đối mới cho các ứng dụng nông nghiệp. Nhiều dự án thí điểm đã được bắt đầu, nhưng việc tăng tỷ lệ chỉ số thời tiết chỉ xảy ra ở một vài quốc gia (đặc biệt là Ấn Độ).

+ Bảo hiểm chỉ số là không phổ biến ở các nước thu nhập cao, bị chi phối bởi các thị trường có mức độ tham gia cao của bảo hiểm truyền thống.

+ Sự can thiệp phổ biến nhất của chính phủ là thông qua trợ cấp, thường khoảng 50% phí bảo hiểm nhưng lên tới 80% ở một số quốc gia. Mức trợ cấp phí bảo hiểm cao có thể không bền vững trong các nền kinh tế bị hạn chế, các khoản trợ cấp có xu hướng làm tổn hại tính bền vững thương mại của các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp bằng cách bóp méo hành vi rủi ro và áp dụng các cơ chế quản lý rủi ro hiệu quả hơn.

+ Những can thiệp khác của chính phủ là khung pháp lý và quy định và cung cấp hàng hóa công cộng, chẳng hạn như dịch vụ dữ liệu và mạng lưới thời tiết.

+ Thành công hay thất bại của các chương trình bảo hiểm cây trồng liên quan đến nền kinh tế chính trị của đất nước, tình trạng phát triển của nông nghiệp, sự phức tạp của các rủi ro gây ra tổn thất, và khả năng quản lý và lãnh đạo của tổ chức bảo hiểm.

+ Tính minh bạch của sản phẩm và quy trình điều chỉnh tổn thất (dẫn đến sự tin tưởng của nông dân vào các công ty bảo hiểm và kênh phân phối hoặc điều chỉnh tổn thất) là rất quan trọng, không phân biệt loại sản phẩm.

+ Tính khả thi, toàn vẹn và chi phí của các thủ tục và hoạt động điều chỉnh tổn thất là một thử nghiệm quan trọng về tính khả thi của bảo hiểm nông nghiệp.

+ Những thách thức của việc thực hiện điều chỉnh tổn thất trong các hệ thống hộ nông nghiệp nhỏ cho các sản phẩm bồi thường truyền thống góp phần thu hút bảo hiểm chỉ số.

2.6.3. Bảo hiểm theo chỉ số năng suất cho cây cà phê tỉnh Đắk Lắk


Bảo hiểm truyền thống gồm bảo hiểm cây trồng theo tên gọi của thiệt hại (NPCI) và bảo hiểm cây trồng đa rủi ro (MPCI). Bảo hiểm truyền thống bồi thường thiệt hại dựa vào thiệt hại năng suất m a màng nên được xem là bảo hiểm năng suất


mùa màng. Do chi phí đánh giá tổn thất cao, bảo hiểm truyền thống dựa trên việc trả tiền bồi thường cho các tổn thất thực tế phát sinh thường không khả thi, đặc biệt đối với các hộ sản xuất nhỏ ở các nước đang phát triển. Kể từ cuối những năm 1990, đã có rất nhiều cuộc thảo luận và tranh luận về hứa hẹn và tiềm năng của việc sử dụng bảo hiểm nông nghiệp dựa trên chỉ số (World bank, 2011). Bảo hiểm chỉ số bảo vệ hộ nông dân chống lại thiệt hại mùa màng sẽ dựa trên một chỉ số được cho là có tương quan cao với năng suất mùa màng. Theo thảo luận lý thuyết về lợi thế của chỉ số so với bảo hiểm truyền thống đã chuyển sang nhu cầu thực tiễn, nhiều chương trình thí điểm bắt đầu nổi lên. Ví dụ bao gồm bảo hiểm theo chỉ số năng suất khu vực được bán tại Hoa Kỳ (Miranda, 1991; Skees và cộng sự, 1997). Bảo hiểm chỉ số với các chỉ số lượng mưa, nhiệt độ và hình ảnh vệ tinh cũng đã được đề xuất cho các nhà sản xuất nông nghiệp (Deng và cộng sự, 2007; Mahul, 2001; Martin và cộng sự, 2001; Miranda và Vedenov, 2001; Skees và Enkh-Amgalan, 2002; Turvey, 2001). Bên cạnh đó, nhiều sự chú ý gần đây đã tập trung vào tiềm năng sử dụng bảo hiểm chỉ số ở các nước thu nhập thấp để bảo vệ tài sản nông nghiệp khỏi tổn thất do các nguy cơ khí hậu khác nhau (Barnett, B.J và cộng sự, 2008). Các sản phẩm này cũng đã chứng minh được tiềm năng của nó để thay thế các bảo hiểm nông nghiệp truyền thống bởi vì chúng có thể được cung cấp với chi phí thấp hơn thậm chí phải chăng cho các nông dân có thu nhập thấp hơn và trung bình (Nepomuscene Ntukamazina và cộng sự, 2017). Do Việt Nam là một trong những nước đang phát triển nên Chính phủ đã chọn sản phẩm bảo hiểm cây trồng theo chỉ số năng suất theo khu vực (AYII) và áp dụng thí điểm bảo hiểm năm 2011-2013 mà không áp dụng bảo hiểm truyền thống (xem Bảng 2.2). Để đơn giản, tác giả tạm gọi bảo hiểm cây trồng theo chỉ số năng suất.


Bảng 2.2: Các sản phẩm bảo hiể c trồng c c nước Đông Na Á nă 2011


Quốc gia

Bảo hiểm truyền thống

Bảo hiểm chỉ số


NPCI

MPCI

CRI

AYII

WII

NDVI/SI

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 251 trang tài liệu này.

Nghiên cứu ứng dụng thống kê Bayes phân tích việc sẵn lòng tham gia bảo hiểm cây cà phê theo chỉ số năng suất của hộ nông dân tỉnh Đắk Lắk - 6


Indonesia









Malaysia







Philippines





Thái Lan





Việt Nam









Chú ý: Sản phẩm bảo hiểm cây trồng có sẵn trên cơ sở thương mại

Sản phẩm bảo hiểm cây trồng thí điểm hoặc đang chờ ra mắt


Ngu n: World bank 2012


Hiện nay có ba loại dữ liệu chính mà bảo hiểm cây trồng theo chỉ số thường có thể dựa vào: dữ liệu thời tiết, dữ liệu năng suất và dữ liệu vệ tinh. Các ưu khuyết điểm đó được thể hiện trong Bảng 2.3.

Dữ liệu năng suất tương đối có xu hướng cung cấp các chỉ số đáng tin cậy nhất, nó có thể tốn kém để thu thập và kiểm toán. Các chỉ số dựa trên dữ liệu năng suất thường cung cấp sự bao quát toàn diện nhất cho nông dân, nắm bắt các nguy cơ sản xuất nông nghiệp mà các nguồn dữ liệu khác không thể (ví dụ như sâu bệnh và dịch bệnh). Tuy nhiên, dữ liệu năng suất có thể tốn kém hơn nhiều để thu thập và kiểm toán do các chuyến thăm trang trại được yêu cầu và theo truyền thống được thực hiện thường dẫn đến thời gian giải quyết khiếu nại dài.

Sản phẩm bảo hiểm chỉ dựa trên thời tiết hoặc chỉ số viễn thám có thể ít tốn kém hơn so với các sản phẩm yêu cầu dữ liệu năng suất. Trong những năm gần đây, đã có rất nhiều quan tâm đến các sản phẩm bảo hiểm WII để cung cấp bảo hiểm chi phí thấp cho nông dân. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều bằng chứng thống kê cho thấy các chỉ số của WII có thể không chính xác cho sản phẩm để bảo vệ nông dân một cách đáng tin cậy. Một nông dân được bảo hiểm có thể trải nghiệm một sự kiện phá hủy mùa màng của họ nhưng bảo hiểm không trả. Ví dụ, nghiên cứu gần đây của Ngân hàng Thế giới và Công ty Bảo hiểm Nông nghiệp Ấn Độ cho thấy mối tương quan giữa thanh toán yêu cầu theo chỉ số thời tiết và tổn thất năng suất của

Xem tất cả 251 trang.

Ngày đăng: 11/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí