Chiến Lược, Cơ Cấu Và Đối Thủ Cạnh Tranh Của Địa Phương

A5. Nhận thức và hình ảnh điểm đến: Những cảm nhận của du khách của một điểm đến du lịch có thể mất thời gian để thay đổi mặc dù thực tế ở một địa điểm không còn là phù hợp với một hình ảnh tiêu cực hay tích cực từ trước. Do đó, một hình ảnh tiêu cực có thể hội đủ điều kiện cải tiến ở một địa điểm và một hình ảnh tích cực có thể có hiệu quả của các vấn đề như tội phạm hoặc chi phí sinh hoạt cao. Nhận thức thị trường điểm đến cũng có thể đảm bảo rằng những thay đổi hình ảnh điểm đến từ từ nhưng hiệu quả của nhận thức cũng ảnh hưởng đến khả năng tiềm năng du lịch. Như vậy, có thể nó rằng nhận thức và hình ảnh điểm đến du lịch là ống kính mà qua đó khách du lịch cảm nhận được tất cả các đặc điểm của một điểm đến.

A6. Sức tải: Giới hạn khả thi của một điểm đến với tổng sức tải lượng khách tại một điểm du lịch cho một đoàn khách du lịch đến trong một ngày hợp đồng. Sức tải khách du lịch phản ánh khả năng về quy mô triển khai hoạt động du lịch tại mỗi điểm du lịch. Sức tải có liên quan chặt chẽ đến đặc điểm hoạt động của khách (số lượng, thời gian), đến khả năng chịu đựng của môi trường tự nhiên, xã hội. Vì thế sức tải khách du lịch không phải theo xu thế càng nhiều càng tốt mà phải là càng phù hợp càng tốt có thể được đánh giá bằng 5 mức độ là khá lớn, khá, trung bình, yếu và kém.

A7. Năng lực cạnh tranh giá trong ngành công nghiệp du lịch: Khả năng cạnh tranh về giá trong ngành công nghiệp Du lịch rõ ràng là một yếu tố quan trọng thông thường được xác định thông qua việc phân tích chi phí ngành du lịch thể hiện bằng sức mua tương đương PPPs hoặc chỉ số giá tiêu dùng CPI (Consumer Price Index) vì chúng có thể được sử dụng để so sánh GDP ở các địa phương khác nhau. Chi phí thay đổi là một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến lựa chọn một điểm đến với giá là một thành phần thiết yếu trong năng lực cạnh tranh tổng thể du lịch một đích đến. Sức mua tương đương PPPs cho phép phân tích các mức giá giữa các địa phương giúp cung cấp thông tin giá thực tế hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách để đánh giá hiệu quả của các chính sách tăng cường năng lực cạnh tranh giá trong ngành công nghiệp du lịch.

A8. Sự hài lòng của khách du lịch: Một thước đo giá trị hấp dẫn về nhu cầu dựa trên nền tảng năng lực cạnh tranh hiện tại và tương lai được coi là một yếu số cơ bản từ phía cầu và cực kỳ quan trọng về sự hiểu biết sở thích của người tiêu dùng, giá trị của kinh nghiệm của họ và ý định trong tương lai. Cùng với xu hướng thị trường và dự báo có thể hỗ trợ để hình thành sản phẩm cạnh tranh để giữ và thu hút du khách trong tương lai. Lấy ý kiến phản hồi của du khách thông qua các cuộc điều tra chính thức cũng không kém phần quan trọng để đạt được cái nhìn sâu sắc về sự hài lòng của du khách và khả năng cạnh tranh của du lịch cung cấp. Vì vậy, các ưu đãi đối với du khách cũng rất quan trọng trong việc xác định khả năng quay trở lại của họ góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh trong tương lai để tạo ra lợi ích kinh tế.

A9. Khả năng tiếp cận điểm đến: Thể hiện sự dễ dàng tiếp cận liên quan trong việc hình thành điểm đến là một chức năng của một loạt các yếu tố như sự thay đổi các quy định của ngành hàng không; thị thực nhập cảnh và giấy phép; kết nối các tuyến đường, trung tâm sân bay và chỗ hạ cánh; năng lực sân bay và lệnh giới nghiêm, cạnh tranh giữa các hãng và hình thức tiếp cận phương tiện giao thông. Tại điểm đến, du khách có thể dễ dàng truy cập các trang web du lịch. Trong điểm đến, khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên du lịch bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị.

2.4.2. Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan


Nhóm B. Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan được xác định thông qua 5 yếu tố thành phần, cụ thể:

B1. Cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng xã hội và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: Cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm những công trình thiết bị và dịch vụ hỗ trợ tất cả các hoạt động kinh tế và xã hội như đường giao thông, đường cao tốc, hệ thống giao thông, hệ thống vệ sinh, hệ thống thông tin liên lạc, các dịch vụ công và các công trình công cộng, một nguồn cung cấp nước đáng tin cậy và sạch, hệ thống pháp luật, các tiện ích, hệ thống tài chính, hệ thống y tế, giáo dục,…vv. Một cơ sở hạ tầng xã hội phát triển và duy trì tốt sẽ cung cấp một nền tảng vững chắc cho một ngành du lịch hoạt động có hiệu quả.

Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là toàn bộ các yếu tố vật chất kỹ thuật tham gia vào quá trình phục vụ khách đáp ứng các nhu cầu nghỉ ngơi, đi lại, hội họp, ăn uống, ... và các nhu cầu khác trong thời gian khách lưu trú và tham quan được thể hiện ở mức độ vệ sinh bên trong và bên ngoài thể hiện ở mức độ an toàn về việc xây dựng, tổ chức các thiết bị an toà và các chỉ dẫn thực hiện, ngoài ra vấn đề an toàn còn được đánh giá trên phương diện an toàn lao động của người lao động cùng với mức độ tiện nghi, chủ yếu về mức độ tổ chức và sắp xếp cơ sở vật chất kỹ thuật thành hệ thống.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.

B2. Các điều kiện về nguồn lực: Điều kiện về con người, lao động du lịch, nguồn nhân lực, kiến thức, tài sản tài chính của địa phương, một số địa phương đã phát triển chương trình và cơ chế nhằm đào tạo nhân viên theo chuyên ngành cụ thể và sinh viên tốt nghiệp có kỹ năng quản lý để đáp ứng nhu cầu cụ thể của các ngành công nghiệp du lịch và khách sạn. Tất cả các ngành công nghiệp cạnh tranh để thu hút lực lượng lao động tài năng. Chương trình như vậy có thể kích hoạt một điểm đến để cung cấp tốt hơn cho nhu cầu về tài nguyên con người riêng của mình.

B3. Năng lực kinh doanh của doanh nghiệp: Điều kiện về tài năng kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện sức khỏe, sức sống, ý thức của doanh nghiệp và các sáng kiến trong việc phát triển các dự án mới tại một địa điểm góp phần vào khả năng cạnh tranh của mình bằng nhiều cách khác nhau. Ngành công nghiệp du lịch được tạo thành từ các doanh nghiệp nhỏ mà thường là động cơ cho sự đổi mới và phát triển kinh tế. Mức độ phát triển du lịch thịnh vượng kinh tế và chất lượng cuộc sống của người dân, phụ thuộc đáng kể vào các hoạt động và thành công của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch.

Nghiên cứu mô hình năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong lĩnh vực du lịch - 10

B4. Số lượng các nhà cung cấp có năng lực tại địa phương: Số lượng và quy mô nhà cung cấp sẽ quyết định đến áp lực cạnh tranh, quyền lực đàm phán của họ đối với ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp. Nếu trên thị trường chỉ có một vài nhà cung cấp có quy mô lớn sẽ tạo áp lực cạnh tranh, ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành. Khả năng thay thế những nguyên liệu đầu vào do các nhà cung cấp và chi phí chuyển đổi nhà cung cấp.

B5. Số lượng các cụm/ngành du lịch: Thực tế cho thấy một số loại hình cụm tồn tại ở mọi cấp độ từ cấp độ toàn cầu đến cấp độ địa phương và các yếu tố trong cấu trúc vĩ mô là rất quan trọng và khả năng tồn tại cụm bị ảnh hưởng nhiều bởi chính sách kinh tế vi mô (ví dụ như hệ thống quản trị doanh nghiệp và thuế) và các biện pháp của họ ảnh hưởng đến mức độ tổng cung bằng cách cải thiện các hoạt động giữa các doanh nghiệp, thị trường và các ngành công nghiệp.

2.4.3.Chiến lược, cơ cấu và đối thủ cạnh tranh của địa phương


Nhóm C. Chiến lược,cơ cấu và đối thủ cạnh tranh của địa phương được xác định thông qua 9 yếu tố thành phần, cụ thể:

C1. Tầm nhìn: Mức độ cộng đồng tạo nên một cảm giác tương lai mong muốn là một tuyên bố hoặc sự hiểu biết về triết lý hoặc các giá trị của điểm đến một cách hợp lý làm cho các điểm đến ý nghĩa nhất về tương lai mong muốn của nó. Triết lý chung giống nhau có thể, ví dụ, có cách nhìn khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau. Trong khi đó, một triết lý là một cách nhìn một vấn đề, tầm nhìn là nhiều câu trả lời cho một vấn đề. Đó là, tầm nhìn là một cái nhìn về những gì người ta thấy khi áp dụng một quan điểm triết lý đặc biệt về phát triển du lịch.

C2. Định vị và xây dựng thương hiệu: Nỗ lực của điểm đến để tạo ra một bản sắc du lịch là mối quan tâm định vị điểm đến, trong tâm trí của khách du lịch, các điểm đến so với đối thủ cạnh tranh của nó. Một điểm đến như vậy là phụ thuộc vào vị trí tương đối độc đáo cảm nhận của du khách về các đặc điểm có giá trị của phân khúc thị trường du lịch. Xây dựng thương hiệu là công cụ được sử dụng để tạo ra các vị trí này.

C3. Các quy tắc và quy định về chính sách: Chất lượng và sự gắn kết của các quy tắc và quy định về chính sách, khả năng cạnh tranh của một điểm đến bị ảnh hưởng bởi chất lượng của các quy tắc và quy định về chính sách được thiết kế để phối hợp và điều tiết phát triển du lịch. Các liên kết chặt chẽ hơn hoặc tích hợp hệ thống chính sách phát triển, càng có nhiều khả năng tương thích hơn là xung đột nhằm đạt được tầm nhìn tổng thể của điểm đến, kết quả mục tiêu cạnh tranh và tính bền vững của nó.

C4. Phân tích cạnh tranh và hợp tác: Đánh giá phạm vi môi trường cạnh tranh liên quan đến việc đánh giá như thế nào về các điểm đến liên quan và so sánh với các điểm đến khác và với hệ thống du lịch quốc tế. Bởi vì khả năng cạnh tranh là một khái niệm tương đối, các quyết định về chính sách hoặc chiến lược phù hợp nhất để phát triển một điểm đến phải được thực hiện trong bối cảnh của những gì các điểm đến khác đang làm và họ đang thực hiện như thế nào.

C5. Kế hoạch hành động quốc gia về du lịch: Hiệu quả trong việc hỗ trợ cải thiện năng lực cạnh tranh của ngành du lịch cần một kế hoạch chiến lược và hành động quốc gia cho phép các nhà hoạch định chính sách để đánh giá các lĩnh vực tiềm năng và những nỗ lực trực tiếp cạnh tranh lớn nhất hiệu quả hơn để nắm bắt những lợi ích kinh tế xã hội và rộng hơn từ du lịch. Quá trình chuẩn bị một chiến lược như vậy là một giai đoạn phát triển và chứng cứ thu thập kiến thức quan trọng mà có thể thu hút khoản đầu tư của các đối tác. Nó cũng có thể tạo ra một kế hoạch hành động nhắm mục tiêu giải quyết các cơ hội ngắn hạn, dài hạn và thách thức. Lồng ghép các hoạt động trên lĩnh vực chính sách cũng là một thách thức quan trọng để đảm bảo rằng các vấn đề xung quanh đầu tư cơ sở hạ tầng, giao thông, kỹ năng và giáo dục được liên kết với một kế hoạch hành động quốc gia du lịch.

C6. Ứng dụng thương mại điện tử trong du lịch: Về đổi mới và sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội trong ngành công nghiệp du lịch với việc sử dụng các dịch vụ thương mại điện tử trong du lịch đã nổi lên như một thành phần quan trọng trong việc tạo điều kiện cho người tiêu dùng trên toàn thế giới để truy cập thông tin về du lịch để đi du lịch. Mạng xã hội và phương tiện truyền thông xã hội là vô cùng mạnh mẽ trên toàn cầu trong việc định hình nhận thức và quyết định du lịch gia đình. Nhận thức được tầm ảnh hưởng của thương mại điện tử là điều cần thiết cho vị trí cạnh tranh thành công của các nước, nối mạng toàn cầu ngành công nghiệp mạng du lịch. Chi phí cho các dịch vụ thương mại điện tử du lịch tiếp tục tăng và điều quan trọng cho các địa phương và các nhà hoạch định chính sách phải đi đầu trong sự phát triển này và đổi mới để phát triển vị thế cạnh tranh mạnh hơn.

C7. Cấu trúc của chuỗi cung ứng du lịch: Về bề dày kinh nghiệm của ngành du lịch, các cụm du lịch, năng lực cạnh tranh hiện tại và tiềm năng trong du lịch cần phải xác định cơ cấu kinh doanh của ngành du lịch là một yếu tố quan trọng trong sức mạnh thị trường tương đối và khả năng cạnh tranh của một quốc gia. Trong tất cả các nước, nhiều doanh nghiệp nhỏ và hạn chế tiềm năng phát triển mà có thể ức chế khả năng cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên sự phát triển của các doanh nghiệp có quy mô và sự hiện diện của các nhà khai thác quốc tế, bao gồm cả các công ty đa quốc gia, có thể là một chỉ số về cơ hội và phương tiện đẩy mạnh khả năng cạnh tranh quốc gia. Yếu tố sức mạnh của chuỗi cung ứng du lịch, công nhận sự hiện diện của các công ty đa quốc gia. Sử dụng bản đồ của cụm du lịch để hiển thị chuỗi cung ứng, điểm mạnh và quy mô địa phương theo phân khúc thị trường du lịch.

C8. Cơ chế khuyến khích du lịch: Để phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, chính quyền địa phương cấp tỉnh cần có hệ thống cơ chế chính sách khuyến khích phát triển du lịch phù hợp bao gồm chính sách dài hạn và chính sách cấp bách và thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, các chương trình, đề án phát triển du lịch. Tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch quốc tế đến Việt Nam; tăng cường năng lực, ứng dụng công nghệ cao, đơn giản hóa thủ tục xuất, nhập cảnh, miễn thị thực; khuyến khích đầu tư khu vực tư nhân vào các lĩnh vực, ngành nghề du lịch, đặc biệt là cơ sở hạ tầng xã hội chung và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.

C9. Marketing du lịch: Khả năng của điểm đến thu hút khách du lịch và đáp ứng qua Marketing có lẽ là truyền thống nhất của các hoạt động này là chức năng của Marketing du lịch điểm đến. Trong thực tế, tiếp thị điểm đến có xu hướng tập trung vào các nhiệm vụ xúc tiến và bán. Đó là, khái niệm về Marketing thường chỉ được áp dụng cho các điểm đến theo những cách hạn chế. Kết quả là, có nhiều cơ hội để áp dụng một triết lý Marketing thực để nâng cao năng lực cạnh tranh điểm đến. Điều này ứng dụng rộng lớn hơn của Marketing bao gồm tất cả các khía cạnh của marketing hỗn hợp (ví dụ, Marketing 4P, 6P, 7P, 8P, 9P ) tập trung vào thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của khách du lịch như mục đích chính của Marketing du lịch điểm đến.

2.4.4. Các điều kiện về nhu cầu thị trường du lịch

Nhóm D. Các điều kiện về nhu cầu thị trường du lịch được xác định thông qua 9 yếu tố thành phần, cụ thể:

D1. Nhu cầu du lịch: Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở cả các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cuộc sống con người ngày càng được cải thiện thì nhu cầu du lịch ngày một tăng. Nhu cầu du lịch dần trở thành một nét sinh hoạt không thể thiếu trong cuộc sống. Vì vậy, để đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong lĩnh vực du lịch phải định hướng theo lý thuyết về nhu cầu của con người, ngoài 5 bậc thang Abraham Maslow (1943) cần phải bổ sung thêm 2 bậc thang đó là nhu cầu về thẩm mỹ, cảm nhận cái đẹp và nhu cầu hiểu biết.

D2. Động lực du lịch: Nền kinh tế phát triển là tiền đề cho sự phát triển của ngành du lịch, chất lượng cuộc sống nâng cao, khi nhu cầu tối thiểu được đáp ứng đầy đủ thì du khách sẽ có nhu cầu cao hơn như tìm hiểu, học hỏi, cảm nhận cái đẹp từ đó tự nhiên nảy sinh động lực đi du lịch. Khi thu nhập bình quân đầu người tăng kéo theo khả năng chi trả cho du lịch cũng liên tục gia tăng thì động lực đi du lịch tìm về với tự nhiên là một điều tất yếu.

D3. Mức độ du lịch: Mức độ du lịch được xác định bởi một loạt các yếu tố bao gồm cả các đối tượng liên quan khác không riêng gì khách du lịch. Chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc ra quyết định đi du lịch của nhiều du khách làm gia tăng mức độ du lịch. Lấy thông tin phản hồi từ các đối tượng liên quan đến khách du lịch thông qua các cuộc điều tra chính thức cũng không kém phần quan trọng để đạt được cái nhìn sâu sắc về sự hài lòng của du khách góp phần tăng cường khả năng cạnh tranh du lịch. Điều này có thể giúp cho chính quyền địa phương đánh giá điểm mạnh, điểm yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút khách du lịch.

D4. Phương thức lưu thông: Đây là yếu tố quan trọng để một điểm đến nào đó được lựa chọn cho chuyến đi du lịch, đặc biệt trong xu thế hiện nay khi khách du lịch muốn đến được nhiều điểm đến khác nhau trong một hành trình và có được nhiều lựa chọn cho những điểm đến du lịch tương đồng. Sự thuận lợi trong tiếp cận điểm đến sẽ phụ thuộc vào sự đa dạng của các phương tiện giao thông để đưa khách du lịch từ nơi cư trú của mình hoặc từ một đầu mối giao thông gần nhất đến một điểm đến du lịch nào đó cũng như những tiện ích và năng lực tiếp nhận khách tại đầu điểm đến.

D5. Phân khúc thị trường: Mục tiêu của việc phân khúc thị trường trong du lịch là chia thị trường thành những phân khúc nhỏ hơn, dễ nhận biết, nắm bắt và đáp ứng hiệu quả hơn nhằm giúp cho việc kinh doanh hiện thực và dễ dàng hơn, đem lại hiệu quả cao hơn và giúp các địa phương xác định rõ và nhắm đúng vào thị trường mục tiêu của họ. Có nhiều cách phân khúc thị trường như: Phân khúc thị trường theo địa lý; Phân khúc theo nhân chủng học; Phân khúc thị trường theo tâm lý; Phân khúc thị trường theo hành vi, thái độ; Phân khúc thị trường địa phương với cách phân chia gần giống với các cách phân chia thị trường người tiêu dùng ở trên.

D6. Nhận thức của khách du lịch: Du lịch là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời ở ngoài nơi lưu trú thường xuyên của cá thể, nhằm thỏa mãn các nhu cấu khác nhau, với mục đích hòa bình và hữu nghị. Với họ du lịch như một cơ hội để tìm kiếm những kinh nghiệm sống, sự thỏa mãn một số các nhu cầu về vật chất và tinh thần của mình.

D7. Nhận thức của chính quyền địa phương: Du lịch là một việc tổ chức các điều kiện về hành chính, về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật để phục vụ du khách. Du lịch là tổng hợp các hoạt động kinh doanh đa dạng, được tổ chức nhằm giúp đỡ việc hành trình và lưu trú tạm thời của du khách. Du lịch là một cơ hội để bán các sản phẩm địa phương, tăng thu ngoại tệ, tăng các nguồn thu nhập từ các khoản thuế trực tiếp và gián tiếp, đẩy mạnh cán cân thanh toán và nâng cao mức sống vật chất và tinh thần cho dân địa phương.

D8. Nhận thức của doanh nghiệp du lịch: Du lịch là quá trình tổ chức các điều kiện về sản xuất và phục vụ nhằm thỏa mãn, đáp ứng các nhu cầu của người di du lịch. Các doanh nhiệp du lịch coi du lịch như là một cơ hội để bán các sản phẩm mà họ sản xuất ra, nhằm thoả mãn nhu cầu của du khách, đồng thời thông qua đó đạt được mục đích số một của mình là tối đa hóa lợi nhuận.

D9. Nhận thức của người dân: Du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội. Với họ hoạt động du lịch tại địa phương mình, vừa đem lại những cơ hội để tìm hiểu về văn hóa và phong cách của người ngoài địa phương, người nước ngoài, là cơ hội để tìm kiếm việc làm, để phát sinh và phát triển các nghề cổ truyền các nghề thủ công truyền thống của dân tộc.

Xem tất cả 233 trang.

Ngày đăng: 19/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí