Cơ Sở Lý Luận Về Lợi Thế Cạnh Tranh Sản Phẩm Cà Phê Nhân‌


tổ chức kinh tế ở tỉnh Đắk Lắk. Theo đó, lợi thế cạnh tranh sản phẩm cà phê nhân được phân tích ở bốn khía cạnh, đó là i) Hiệu quả (năng suất, chi phí sản xuất, giá thành, lợi nhuận); ii) Chất lượng sản phẩm (tiêu chuẩn chất lượng, cơ cấu chất lượng); iii) Thị phần (trong nước, nước ngoài, khả năng giữ vững và

mở rộng thị

phần) và iv) Khả

năng đáp

ứng cầu (kênh tiêu thụ, thương hiệu,

chủng loại, mẫu mã, phương thức bán hàng).

Luận án đã phân tích những lợi thế và bất lợi thế trong cạnh tranh sản phẩm cà phê nhân của các tổ chức kinh tế ở tỉnh Đắk Lắk, trong đó nêu rõ lợi thế cạnh tranh về năng suất, giá thành sản phẩm và thị phần. Sản phẩm cà phê nhân của các tổ chức kinh tế tỉnh Đắk Lắk kém lợi thế cạnh tranh ở chất lượng sản phẩm và năng lực đáp ứng cầu thấp. Luận án đã đi sâu phân tích các nguyên nhân thúc đẩy và làm cản trở việc nâng cao lợi thế cạnh tranh sản phẩm cà phê nhân của các tổ chức kinh tế ở Đắk Lắk, bao gồm i) Điều kiện tự nhiên; ii) Năng lực của các tổ chức kinh tế sản xuất kinh doanh cà phê nhân (tài chính, nhân lực và tổ chức sản xuất); iii) Sức mạnh của cầu nội địa; iv) Năng lực và khả năng cung

ứng của các ngành hỗ

trợ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 245 trang tài liệu này.

và đầu tư

công (cung cấp đầu vào, cơ

Nghiên cứu lợi thế cạnh tranh sản phẩm cà phê nhân của các tổ chức kinh tế tại tỉnh Đắk Lắk - 4

sở hạ

tầng,

khuyến nông, tín dụng, xúc tiến thương mại…) v) Tổ chức quản lý ngành hàng cà phê (liên kết giữa các tác nhân trong ngành hàng, hỗ trợ cung cấp thông tin thị trường, luật pháp, chính sách) và vi) Chính sách của Chính phủ. Luận án cũng đã khẳng định việc tạo lập và phát triển lợi thế cạnh tranh sản phẩm cà phê nhân là

yêu cầu tất yếu khách quan trong hội nhập kinh tế quốc tế; Đồng thời nhấn

mạnh quan điểm cạnh tranh dựa vào lợi thế tĩnh (dựa vào nguồn lực sản xuất vốn có như tài nguyên, lao động...) không còn phù hợp, để nuôi dưỡng và phát triển lợi thế cạnh tranh bền vững sản phẩm cà phê nhân cần tạo dựng các lợi thế mới, đặc trưng dựa vào đổi mới và sáng tạo (cải tiến chất lượng, thương hiệu, chủng loại…).

Từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Luận án đã xác định các giải pháp và chính sách phù hợp nâng cao lợi thế cạnh tranh sản phẩm cà phê nhân của các tổ


chức kinh tế ở tỉnh Đắk Lắk và khẳng định nâng cao năng lực cho các tổ chức kinh tế sản xuất kinh doanh cà phê (lao động, tài chính, tổ chức sản xuất) là nền tảng quyết định; Bên cạnh đó cần tích cực cải thiện môi trường vi mô và vĩ mô (nghiên cứu phát triển thị trường, mở rộng thị trường tiêu dùng nội địa, các ngành hỗ trợ và đầu tư công, tổ chức quản lý ngành hàng) và sự hỗ trợ từ chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ để phát triển lợi thế cạnh tranh sản phẩm cà phê nhân.


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

VỀ LỢI THẾ CẠNH TRANH SẢN PHẨM CÀ PHÊ NHÂN


1.1 Cơ sở lý luận về lợi thế cạnh tranh sản phẩm cà phê nhân‌

1.1.1 Khái niệm lợi thế cạnh tranh sản phẩm cà phê nhân

Thực tế cho đến nay, các thuật ngữ về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh được nhiều người quan tâm và được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau trao đổi xung quanh các khái niệm này.

* Khái niệm cạnh tranh

Cạnh tranh (competitiveness) của một quốc gia, một ngành kinh tế, hay một sản phẩm là một vấn đề quan tâm hàng đầu của Chính phủ và các doanh nghiệp khi bước vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cạnh tranh là động lực, là một trong những nguyên tắc cơ bản, tồn tại khách quan và không thể thiếu được của sản xuất hàng hóa. Theo Diễn đàn cấp cao của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD, 2002) về tính cạnh tranh thì “tính cạnh tranh của một doanh nghiệp, ngành hay quốc gia là khả năng của doanh nghiệp, ngành hay quốc gia hay vùng tạo ra mức thu nhập nhân tố và tuyển dụng nhân tố tương đối cao khi phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế”[dt.38]. Hay cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản xuất kinh doanh với nhau nhằm giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Mục tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích, lợi nhuận lớn nhất, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của chủ thể tham gia cạnh tranh. Cạnh tranh bao gồm việc cạnh tranh giành các nguồn lực sản xuất, cạnh tranh về khoa học và công nghệ, cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, cạnh tranh bằng giá cả và phi giá cả, bằng chất lượng hàng hóa,


dịch vụ, bằng phương thức thanh toán… Cạnh tranh có nhiều loại cạnh tranh giữa người mua và người bán, cạnh tranh giữa người bán với nhau hoặc giữa người mua với nhau, cạnh tranh trong nội bộ ngành, cạnh tranh giữa các ngành, cạnh tranh trong giới hạn quốc gia và quốc tế. Theo Porter M. (1985) thì cạnh tranh là giành lấy thị phần, bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có.

Kết quả

quá trình cạnh tranh là sự

bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo

chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi [27].

* Khái niệm năng lực cạnh tranh

Năng lực cạnh tranh là khả năng ganh đua, khả năng đấu tranh để tồn tại trong kinh doanh và đạt được một số kết quả mong muốn dưới dạng lợi nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất lượng các sản phẩm cũng như khả năng khai thác các cơ hội thị trường hiện tại và làm nảy sinh thị trường mới. Năng lực cạnh tranh được xem xét ở ba cấp độ khác nhau bao gồm năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ.

Thế nào là một quốc gia có sức cạnh tranh? Có nhiều giải thích khác nhau về sức cạnh tranh quốc gia. Có quan điểm cho rằng cạnh tranh quốc gia có thể phụ thuộc vào việc sở hữu những nguồn tài nguyên thiên nhiên hay nguồn lao động dồi dào và giá rẻ, hoặc là một quốc gia có cán cân thương mại thặng dư. Quan điểm khác thì tranh luận rằng chính sách của Chính phủ có tác động lớn

nhất tới sức cạnh tranh. Định nghĩa của

Báo cáo cạnh tranh toàn cầu

(GCR,

2002), tính cạnh tranh của một quốc gia là “khả năng gia tăng và duy trì lâu dài mức sống dân cư, có nghĩa là đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, được đo lường bằng sự thay đổi GDP đầu người”. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF, 2000) đã sử dụng 8 nhóm yếu tố chủ yếu để đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia (1) mức độ mở cửa hay hội nhập, (2) sự phát triển của thể chế kinh tế thị trường, (3) công nghệ, (4) kết cấu hạ tầng, (5) lao động, (6) trình độ quản lý,

(7) Chính phủ và (8) thể chế. Theo Lê Đăng Doanh (2006), năng lực cạnh tranh


quốc gia là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của người dân [12].

Porter M. trong tác phẩm Lợi thế cạnh tranh quốc gia (1990) cho rằng khái niệm có ý nghĩa về cạnh tranh quốc gia là năng suất quốc gia hay năng suất sử dụng các nguồn lực (nhân công và vốn) [28]. Đó là yếu tố quyết định hàng đầu đối với mức sống của một quốc gia. Để duy trì được sự tăng trưởng về năng suất đòi hỏi một nền kinh tế phải tự nâng cấp mình liên tục. Các doanh nghiệp của quốc gia phải không ngừng cải thiện năng suất trong các ngành kinh tế bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, đưa thêm vào các tính năng mới, cải tiến công nghệ sản phẩm và nâng cao hiệu quả sản xuất.

Về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất. Theo cách tiếp cận thương mại truyền thống, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả giúp cho các doanh nghiệp phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế [50]. Một số tác giả khác lại lập luận năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đồng nghĩa với việc duy trì và

nâng cao lợi thế cạnh tranh. Theo Trần Sửu (2005), năng lực cạnh tranh của

doanh nghiệp là khả năng tạo ra lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững [36]. Theo Vũ Trọng Lâm (2006), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo mới

các lợi thế

cạnh tranh của doanh nghiệp[21]. Tương tự, tác giả

Nguyễn Hữu

Thắng (2009) cũng cho rằng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng

duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng

mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm


đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững [39].

Nhìn chung, các quan điểm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đề cập ở trên đều nhấn mạnh đến khả năng nổi trội của doanh nghiệp thông qua việc tạo ra năng suất cao, chất lượng tốt, giữ vững thị phần; sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất, tiết kiệm chi phí để đạt lợi nhuận cao và bền vững.

Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ được đo bằng thị phần của sản phẩm hay dịch vụ đó trên thị trường [12]. Năng lực cạnh tranh quốc tế của hàng hóa và dịch vụ trao đổi trên thị trường quốc tế là rất quan trọng và nó bảo đảm cho hàng hóa dịch vụ có thể chiếm lĩnh khách hàng trên thị trường thế giới [85].

Các chuyên gia kinh tế cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội của nó so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường. Hay sức cạnh tranh của sản phẩm chính là năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần của loại sản phẩm do chủ thể sản xuất và cung ứng nào đó đem ra để tiêu thụ so với sản phẩm cùng loại do chủ thể sản xuất và cung ứng khác đem đến tiêu thụ ở cùng một khu vực thị trường vào thời gian nhất định.

Với cách tiếp cận trên, sức cạnh tranh của sản phẩm có thể hiểu là sự vượt trội so với các sản phẩm cùng loại về chất lượng và giá cả với điều kiện các sản phẩm tham gia cạnh tranh đều đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng, có nghĩa là, những sản phẩm mang lại giá trị sử dụng cao hơn trên 1 đơn vị giá cả là những sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao hơn.

Ba cấp độ năng lực cạnh tranh trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Năng lực cạnh tranh quốc gia cao đòi hỏi có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh; đồng thời phải xây dựng môi trường kinh doanh, chính sách vĩ mô và kết cấu hạ tầng thích hợp. Để doanh nghiệp cạnh tranh tốt thì điều kiện, tiền đề kinh doanh của nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được, môi trường kinh tế phải ổn định. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua năng lực cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ


mà doanh nghiệp kinh doanh. Một doanh nghiệp có thể phẩm, dịch vụ có năng lực cạnh tranh khác nhau.

kinh doanh nhiều sản

Khái niệm về năng lực cạnh tranh tập trung vào hai cách tiếp cận khác nhau, đó là lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh. Một quốc gia có lợi thế so sách đối với những ngành sử dụng nhiều yếu tố sản xuất mà quốc gia đó dồi dào [4], [20]; Trong khi đó lợi thế cạnh tranh nhấn mạnh đến cạnh tranh toàn cầu liên quan đến chiến lược mà nó bao gồm không chỉ mậu dịch mà còn cả đầu tư nước ngoài. Nói cách khác, lợi thế so sánh chỉ là những điều kiện đặc thù tạo ra ưu thế một khía cạnh nào đó của một quốc gia hoặc ngành kinh doanh của quốc gia đó, như những điều kiện tự nhiên, tài nguyên hay con người… Nguồn nhân công rẻ, tài nguyên dồi dào thường được coi là lợi thế so sánh của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, đây mới chỉ là cơ sở cho một lợi thế cạnh tranh tốt chứ chưa đủ là một lợi thế cạnh tranh bảo đảm cho sự thành công trên thị trường quốc tế. Lợi thế cạnh tranh phải là khả năng cung cấp giá trị gia tăng cho các đối tượng có liên quan như khách hàng, nhà đầu tư hoặc các đối tác kinh doanh và tạo giá trị gia tăng cao cho doanh nghiệp [16].

* Khái niệm lợi thế cạnh tranh

Theo từ điển Wikipedia, lợi thế cạnh tranh (competitive advantage) là sở

hữu của những giá trị đặc thù, có thể sử dụng được để “nắm bắt cơ hội”, để kinh

doanh có lãi. Khi nói đến lợi thế

cạnh tranh, là nói đến lợi thế

mà một doanh

nghiệp, một quốc gia đang có và có thể có, so với các đối thủ cạnh tranh của họ. Lợi thế cạnh tranh là một khái niệm vừa có tính vi mô (cho doanh nghiệp, sản phẩm), vừa có tính vĩ mô (ở cấp quốc gia).

Lợi thế cạnh tranh được hiểu là những ưu thế vượt trội hơn so với các đối thủ cạnh tranh nhờ sở hữu các nguồn lực, các điều kiện thuận lợi hơn, ưu

việt hơn trong hoạt động kinh tế. Lợi thế cạnh tranh giúp cho nhiều doanh

nghiệp có được “quyền lực thị trường” để thành công trong kinh doanh và trong cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh đạt được nhờ trao cho khách hàng giá trị lớn hơn,


hoặc thông qua giá hạ, hoặc bằng cách cung cấp những lợi ích mà có thể biện minh cho mặt bằng giá cao hơn [19]. M. Porter lập luận rằng, lợi thế cạnh tranh phát sinh từ các giá trị mà doanh nghiệp (sản phẩm) có thể tạo ra cho người mua, giá trị này phải lớn hơn chi phí của doanh nghiệp đã bỏ ra. Có hai loại lợi thế cạnh tranh cơ bản, đó là chi phí tối ưu và khác biệt hóa [27]. Doanh nghiệp (sản phẩm) có lợi thế chi phí nếu chi phí tích lũy từ việc thực hiện các hoạt động giá trị của họ thấp hơn các đối thủ cạnh tranh. Có hai phương pháp chính để doanh nghiệp có lợi thế chi phí, đó là kiểm soát các yếu tố tác động đến chi phí và định hình lại chuỗi giá trị (áp dụng quy trình sản xuất, chế biến, phân phối, quảng cáo khác biệt và có hiệu quả hơn). Một sản phẩm khác biệt hóa khi nó cung cấp điều gì đó là duy nhất và có giá trị cho người mua, thông qua đó nâng cao mức độ hài lòng hoặc đáp ứng được tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Tính bền vững của khác biệt hóa dựa trên hai yếu tố là i) giá trị dành cho người mua được nhận thức liên tục và ii) các đối thủ cạnh tranh khó bắt chước được. Thay đổi công nghệ là một yếu tố quan trọng tác động đến lợi thế cạnh tranh, bởi vì việc thay đổi công nghệ tạo nền tảng để tiết kiệm chi phí và tăng cường khác biệt hóa.

* Khái niệm lợi thế cạnh tranh sản phẩm cà phê nhân

Nhìn chung các tiếp cận nghiên cứu khả năng cạnh tranh ngành/sản phẩm cà phê phần lớn đề cập đến khía cạnh lợi thế so sánh, hầu như chưa có nghiên cứu chuyên sâu nào về lợi thế cạnh tranh. Theo Trần Ngọc Hưng (2002), khả năng cạnh tranh sản phẩm cà phê là khả năng quốc gia khai thác lợi thế các yếu tố đầu vào như đất đai, khí hậu, con người, hạ tầng kỹ thuật, cách thức tổ chức sản xuất... để đạt năng suất cao và giá thành thấp hơn so với quốc gia khác [18]. Tương tự, Hoàng Thúy Bằng và CS. (2004) cũng cho rằng khả năng cạnh tranh sản phẩm cà phê là dựa trên các yếu tố chi phí đầu vào, năng suất sản phẩm, lợi thế về vị trí và hệ thống chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên, các tác giả cũng khẳng định khả năng cạnh tranh ngành cà phê của quốc gia sẽ khó duy trì nếu như không đáp ứng được các xu hướng mới của thị trường cà phê thế giới [2].

Xem tất cả 245 trang.

Ngày đăng: 09/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí