Nghiên cứu đề xuất quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Mù Cang Chải tỉnh Yên Bái - 2


1.2. Trên thế giới


1.2.1. Quy hoạch sử dụng đất


Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Do công nghiệp và giao thông vận tải phát triển, nên nhu cầu khối lượng gỗ ngày càng tăng. Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa phương của chế độ phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hóa Tư bản chủ nghĩa. Thực tế sản xuất lâm nghiệp đã không còn bó hẹp trong việc sản xuất gỗ đơn thuần mà cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu hoạch lợi nhuận lâu dài cho các chủ rừng. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý luận quy hoạch lâm nghiệp đã được hình thành trong hoàn cảnh như vậy.

Tại Châu âu, vào thập kỷ 30 và 40 của thế kỷ XX, quy hoạch ngành giữ vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm 1946, Jack.G.V đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất với tên “Phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất”. Đây là tài liệu đầu tiên đề cập đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất. Tại vùng Rhodesia trước đây, nay là cộng hòa Zimbabwe, Bộ Nông nghiệp đã xuất bản cuốn sổ tay hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất hỗ trợ cho quy hoạch cơ sở hạ tầng cho trồng rừng. Vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX, tạp chí “East Afican Journal fof Agricultue and Dorestry” đã xuất bản nhiều bài báo về quy hoạch cơ sở hạ tầng ở Nam Châu phi. Năm 1966, Hội đất học của mỹ và Hội nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng trong quy hoạch sử dụng đất,v.v… [8].

Trong khi xây dựng khung đánh giá đất đai, lần đầu tiên tổ chức FAO năm 1976 đã đề xuất cấu trúc khung quy hoạch sử dụng đất với 10 điểm chính. Trong phân loại đánh giá và đề xuất các kiểu và dạng sử dụng đất được xét như là các bước chính trong quá trình quy hoạch [27].

Năm 1985 một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế về quy hoạch sử dụng đất được tổ chức FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình quy hoạch sử dụng đất.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.


Wilkingson năm 1985 nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất theo khía cạnh luật pháp. Tác giả đề nghị “Một hệ thống luật pháp thích hợp cần được phát triển nhằm mục đích: Cung cấp chính sách và mục tiêu rõ ràng của Nhà nước về đất đai, thiết lập các tổ chức sử dụng đất phù hợp với yêu cầu sử dụng theo quy trình kế hoạch và kỹ thuật, tăng cường sự thông hiểu về sử dụng đất và khuyến khích sản xuất cơ chế giám sát và cưỡng chế” [30].

Nghiên cứu đề xuất quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Mù Cang Chải tỉnh Yên Bái - 2

Năm 1986, Dent và nhiều tác giả nghiên cứu sâu về công trình quy hoạch. Ông khái quát quy hoạch sử dụng đất trên 3 cấp khác nhau và mối quan hệ của các cấp: kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp vùng (tỉnh, huyện) cấp cộng đồng (xã, thôn). Ông còn đề xuất quy trình quy hoạch gồm 4 giai đoạn và 10 bước [28].

Những kết quả thử nghiệm phân tích hệ thống canh tác tại Châu á, Châu Phi và Nam Mỹ xác nhận rằng tích hệ thống canh tác là một công cụ quy hoạch và lập kế hoạch nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất cấp địa phương. Lung năm 1990 lần đầu tiên nghiên cứu đánh giá đất đai với phân tích hệ thống canh tác cho quy hoạch sử dụng đất.

1.2.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ


Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp ở Liên Xô trước đây: Nguyễn Nhật Tân – Nguyễn Thị Vòng (1995) [17]: Quy hoạch vùng nông nghiệp là một biện pháp tổng hợp của nhà nước về phân bố và phát triển lực lượng sản xuất trên lãnh thổ các vùng hành chính – nông nghiệp nhằm đáp ứng các nhu cầu về phát triển tất cả các ngành kinh tế quốc dân trong vùng. Quy hoạch vùng nông nghiệp là giai đoạn kết thúc của kế hoạch hóa ương lai của nhà nước một cách chi tiết sự phát triển và phân bố lực lượng sản xuất theo lãnh thổ của vùng, là biện pháp xác định các xí nghiệp chuyên môn hóa một cách hợp lý, là biện pháp thiết kế và đưa vào nề nếp việc sử dụng đất đai trên từng khu vực cụ thể của vùng, là biện pháp xác định sự phân bố đúng đắn các cơ quan y tế và phục vụ sinh hoạt văn hóa cho nhân dân, là biện pháp xây dựng các tiền đề tổ chức lãnh thổ nhằm sử dụng hợp lý các của cải tự nhiên, các thành tựu khoa học kỹ thuật, các nguồn lao động nhằm phát triển với tốc



độ nhanh kinh tế của tất cả các xí nghiệp đồng thời cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân trong vùng lao động nông nghiệp đó.

Trần Hữu Viên (2005) [25]: Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp tuân theo học thuyết Mác – Lê Nin về phân bố và phát triển lực lượng sản xuất theo lãnh thổ và sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Các Mác và Ăng Ghen đã chỉ ra “Mức độ phát triển lực lượng sản xuất của một dân tộc thể hiện rõ nét hơn hết ở sự phân công lao động của dân tộc đó được phát triển đến mức độ nào”.

Lê Nin đã chỉ ra “Sự nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội của mỗi vùng là nguyên tắc quan trọng để phân bố sản xuất”. Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng cho sự phân bố lực lượng sản xuất cho một vùng trong quá khứ và hiện tại để xác định khả năng tiềm tàng và tương lai phát triển của vùng đó.

Dựa trên cơ sở học thuyết của Mác và Ăng Ghen, V.I. Lê Nin đã nghiên cứu các hướng cụ thể về kế hoạch hóa và phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội chủ nghĩa.

Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari trước đây: Nhằm sử dụng hiệu quả nhất lãnh thổ của đất nước. Bố trí hợp lý các hoạt động của con người nhằm đảm bảo tái sản xuất mở rộng. xây dựng đồng bộ môi trường sống.

Quy hoạch lãnh thổ đất nước được phân thành các vùng: Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên phải bảo vệ; Lãnh thổ thiên nhiên không có nông thôn, sự tác động của con người vào đây rất ít; Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên có mạng lưới nông thôn, có sự can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho nghỉ mát; Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp không có mạng lưới nông thôn nhưng có tác động đặc biệt của con người; Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp có mạng lưới nông thôn và có sự can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho nghỉ mát; Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp không có mạng lưới nông thôn nhưng có tác động đặc biệt của con người; Lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con người.



Trên cơ sở quy hoạch vùng lãnh thổ cả nước tiến hành quy hoạch lãnh thổ vùng và quy hoạch lãnh thổ địa phương.

Quy hoạch vùng ở Pháp: Theo quan niệm chung của hệ thống các mô hình quy hoạch vùng lãnh thổ M. Thensevin (M. Pierr Thenseevin), một chuyên gia thống kê đã giới thiệu một số mô hình quy hoạch vùng được áp dụng thành công ở miền Tây Nam nước Cộng hòa Coote D’ivoire. Trong mô hình quy hoạch vùng này, người ta đã nghiên cứu hàm mục tiêu cực đại giá trị tăng thêm xã hội với các giàng buộc trong nội dùng, có quan hệ với các vùng khác và với nước ngoài. Thực chất mô hình là một bài toán quy hoạch tuyến tính có cấu trúc:

- Các hoạt động sản xuất:


+ Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và trồng trọt công nghiệp với các mức thâm canh cao độ, thâm canh trung bình và cổ điển (truyền thống).

+ Hoạt động khai thác rừng


+ Hoạt động đô thị: Chế biến gỗ, bột giấy, vận chuyển, dịch vụ, thương mại …


- Nhân lực phân theo các dạng thuế thời vụ, các loại lao động nông nghiệp, lâm nghiệp.

- Cân đối xuất nhập, thu chi và các cân đối khác vào giàng buộc về diện tích đất, về nhân lực, về tiêu thụ lương thực, v.v…

Tóm lại: Quy hoạch vùng nhằm đạt mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng tăng thêm giá trị sản phẩm của xã hội theo phương pháp mô hình hóa trong điều kiện thực tiễn của vùng, so sánh với vùng xung quanh và nước ngoài.

Quy hoạch vùng lãnh thổ của Thái Lan: Công tác quy hoạch vùng lãnh thổ được chú ý từ những năm 1970. Hệ thống quy hoạch được tiến hành theo 3 cấp: (Quốc gia, vùng, á vùng hay địa phương).



Vùng (Region) được coi như một á miền (Subdivision) của đất nước. Đó là điều cần thiết để phân chia quốc gia thành các á miền theo các phương diện khác nhau như phân bố dân cư, khí hậu, địa hình… Đồng thời vì lý do quản lý hay chính trị, đất nước được chia thành các miền như đơn vị hành chính hay đơn vị bầu cử. Quy mô diện tích của một vùng phụ thuộc vào kích thước, diện tích của đất nước. Thông thường vùng năm trên một diện tích lớn hơn đơn vị hành chính lớn nhất. Sự phân chia các vùng theo mục đích của quy hoạch, theo đặc điểm của lãnh thổ.

Quy hoạch phát triển vùng tiến hành ở cấp á miền được xây dựng theo 2 cách:


Thứ nhất: Sự bổ sung của kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng, những mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng, sao đó kế hoạch vùng được giải quyết trong kế hoạch quốc gia.

Thứ hai: Quy hoạch vùng được giải quyết căn cứ vào đặc điểm của vùng, các kế hoạch vùng đóng góp vào việc xây dựng kế hoạch quốc gia.

Quy hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý nhà nước, phải

phối hợp với chính phủ và chính quyền địa phương.


Dự án phát triển của Hoàng Gia Thái Lan đã xác định được vùng nông nghiệp chiếm một vị trí quan trọng về kinh tế, xã hội và chính trị ở Thái Lan và tập trung xây dựng ở 2 vùng: Trung tâm và Đông Bắc. Trong 30 năm (1961 – 1988 đến 1992 – 1996), tổng dân cư nông thôn trong các vùng nôn nghiệp từ 80% giảm xuống 66,6%, các dự án tập trung vào mấy vấn đề quan trọng: Nước, đất đai, vốn đầu tư kỹ thuật, nông nghiệp, thị trường [18].

1.2.3. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng.


Lê Sỹ Việt, Trần Hữu Viên (1999) [25]: Đầu thế kỷ 18, phạm vi quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc “khoanh khu chặt luân chuyển” có nghĩa là đem trữ lượng hoặc diện tích tài nguyên rừng chia đều cho từng năm của chu kỳ khai thác và tiến hành khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc diện tích. Phương thức này phục vụ cho phương thức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai thác ngắn.



Sau cách mạng công nghiệp, vào đầu thế kỷ XIX phương thức kinh doanh rừng chồi được thay thế bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai thác dài. Và phương thức “khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ cho phương thức “chia đều” của Hartig. Hartig đã chia chu kỳ khai thác thành nhiều thời kỳ lợi dụng và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm. Đến năm 1816 xuất hiện phương pháp phân kỳ lợi dụng của H.Cotta. Cotta chia chu kỳ khai thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống chế lượng chặt hàng năm.

Sau đó phương pháp “Bình quân thu hoạch” ra đời. Quan điểm phương pháp này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng thời vẫn đảm bảo thu hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối thế kỷ XIX xuất hiện phương pháp “Lâm phần kinh tế” của Judeich, phương pháp này khác với phương pháp “Bình quân thu hoạch” về căn bản. Judeich cho rằng những lâm phần nào đảm bảo thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ đưa vào diện khai thác. Hai phương pháp “Bình quân thu hoạch” và “Lâm phần kinh tế” chính là tiền đề của hai phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác nhau. Phương pháp “Bình quân thu hoạch” và sau này là phương pháp “Cấp cuối” chịu ảnh hưởng của “Lý luận rừng tiêu chuẩn”, có nghĩa là rừng phải có kết cấu tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích, trữ lượng, vị trí và đưa các cấp tuổi cao vào diện tích khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng này được dùng phổ biến ở các nước có tài nguyên rừng phong phú. Còn phương pháp “Lâm phần kinh tế” và hiện nay là phương pháp “Lâm phần” không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần tiến hành phân tích, xác định sản lượng và biện pháp kinh doanh. Cũng từ phương pháp này, còn phát triển thành “Phương pháp kinh doanh lô” và “phương pháp kiểm tra”.

Năm 1929 bang Wiscosin đã tạo ra luật sử dụng đất đai trong đó có quy định nguyên tắc sử dụng đất lâm nghiệp, tiếp theo xây dựng kế hoạch sử dụng đất đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscosin, kế hoạch này đã xây dựng các diện tích cho sử dụng đất lâm nghiệp, nông nghiệp và nghỉ ngơi giải trí.



1.3. Ở Việt Nam


1.3.1. Quy hoạch sử dụng đất


Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã chỉ ra “Xúc tiến công tác điều tra cơ bản, dự báo, lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất, nghiên cứu chiến lược kinh tế xã hội, dự thảo kế hoạch triển vọng để chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm sau (1986 – 1990)”.

Các tác giả: Phạm Văn Chiểu (1964); Bùi Huy Đáp (1977); Vũ Tuyên Hoàng (1987); Lê Trọng Cúc (1971); Nguyễn Ngọc Bình (1987); Bùi Quang Toản (1991) đã có nhiều công trình nghiên cứu về luân canh tang vụ, trồng xen, trồng gối vụ với mục đích sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai. Bên cạnh đó những nghiên cứu lựa chọn hệ thống cây trồng phù hợp trên đất dốc vùng đồi núi phía Bắc Việt Nam cũng đã được nhiều tác giả đề cập đến.

Năm 1993, nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp cấp xã do dự án đổi mới chiến lược phát triển rừng thực hiện tại xã Tử Nê, xã Hang Kìa và xã Pà Cò thuộc tỉnh Hòa Bình. Một trong những bài học rút ra được qua việc thực thi dự án là công tác quy hoạch sử dụng đất phải được coi là một nội dung chính và cần được thực hiện trước khi giao đất trên cơ sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân, già làng, trưởng bản và chính quyền xã. Hạn chế của chương trình này là chưa có kế hoạch sử dụng chi tiết nên khó tránh khỏi các mâu thuẫn của cộng đồng phát sinh sau quy hoạch.

Năm 1994, Tổng cục địa chính đã xây dựng kế hoạch và triển khai công tác quy hoạch sử dụng đất trên quy mô cả nước giai đoạn 1995 – 2000. Trong đó việc lập kế hoạch giao đất nông nghiệp, lâm nghiệp có rừng để sử dụng vào mục đích khác cũng được đề cập tới. Báo cáo đánh giá tổng quát hiện trạng sử dụng đất và định hướng phát triển đến năm 2000 làm căn cứ để các địa phương, các ngành thống nhất triển khai công tác lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất [16].



Nguyễn Xuân Quát (1996) [11], đã phân tích tình hình sử dụng đất đai và đề xuất mô hình sử dụng đất tổng hợp bền vững, mô hình khoanh nuôi phục hồi rừng ở Việt Nam. Đồng thời, đưa ra tập đoàn cây trồng thích hợp cho các mô hình sử dụng đất tổng hợp bền vững trong công trình nghiên cứu “Sử dụng đất tổng hợp và bền vững”.

Các vấn đề sử dụng đất đai gắn liền với bảo vệ độ phì nhiêu của đất và môi trường vùng đồi núi trung du phía Bắc Việt Nam, đã được Lê Vĩ (1996) đề cập tới trên các khía cạnh: Tiềm năng đất vùng trung du; Hiện trạng sử dụng đất vùng trung du; Các kiến nghị về sử dụng đất bền vững.

Tác giả Vũ Văn Mễ và Desloges (1996) [7], đã thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất có người dân tham gia tại Quảng Ninh đã đề xuất 6 nguyên tắc và các bước cơ bản trong QHSDĐ trong đó cấp xã đóng vai trò phát triển trong phương pháp quy hoạch. Sáu nguyên tắc đó là: Kết hợp hài hòa giữa ưu tiên của chính phủ và nhu cầu nguyện vọng của nhân dân địa phương; Tiến hành trong khuôn khổ luật định và các nguồn lực hiện có tại địa phương; Đảm bảo tính công bằng, chú ý đến cộng đồng dân tộc miền núi, nhóm người nghèo và vai trò của phụ nữ; Đảm bảo tính bền vững; Đảm bảo nguyên tắc cùng tham gia; Kết hợp hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng.

Luật đất đai năm 2003 quy định cụ thể về công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Điều 22 quy định căn cứ để lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Điều 23 quy định nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Điều 25 quy định rõ cả 4 cấp hành chính trong cả nước phải lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Điều 26 quy định về thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Điều 29 thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất [12].

Ngày 01/07/2004 Luật đất đai mới chính thức có hiệu lực thi hành. Luật quy định rõ về công tác quản lý đất đai, trong đó nêu rõ nội dung công tác quản lý quy hoạch sử dụng đất.

Chính phủ đã ban hành nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về việc thi hành luật đất đai [4]. Đồng thời Bộ tài nguyên và môi trường cũng ban hành

Xem tất cả 143 trang.

Ngày đăng: 19/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí