Tính Độc Lập Của Kiểm Toán Viên‌


xu hướng ngày càng cao, vì thế phát sinh các kỳ vọng mới đối với kiểm toán viên như đòi hỏi kiểm toán viên phải đưa ra sự đảm bảo chắc chắn, kiểm toán viên đảm bảo doanh nghiệp sau kiểm toán là hoạt động hiệu quả hay kiểm soát nội bộ là có hiệu lực trong việc ngăn chặn tất cả các gian lận… Như vậy, nhu cầu mới của ngời sử dụng thông tin dẫn tới sự ra đời của các kỳ vọng cao hơn, trong đó bao gồm cả kỳ vọng hợp lý và bất hợp lý đối với trách nhiệm và kết quả kiểm toán.

Kamau (2013) cũng cho rằng những kỳ vọng không hợp lý của công chúng hoặc người sử dụng thông tin dẫn tới sự gia tăng khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán. Và nhiều khả năng, những kỳ vọng quá cao được thúc đẩy bởi nhu cầu thông tin cao hơn của người sử dụng. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Kamau (2013) đã chứng minh được giả thuyết này của tác giả khi số liệu thống kê cho thấy nhu cầu của người sử dụng thông tin là một nhân tố có mức độ ảnh hưởng đáng kể và thuận chiều với khoảng cách kỳ vọng.

1.2.4. Tính độc lập của kiểm toán viên‌

Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tính độc lập của kiểm toán viên là một trong những nhân tố chính ảnh hưởng tới khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán như nghiên cứu của, Swift và Dando (2002), Shaikh và Talha (2003), Enofe và cộng sự (2013), Kamau (2013), Alani (2014), Albeksh (2017), Fulop (2017), Akther và Xu

(2020).

Sự độc lập của kiểm toán viên được coi là nền tảng của nghề kiểm toán vì nó cũng là nền tảng cho niềm tin của công chúng (Nelson, 2006). Độc lập có hai khía cạnh khác nhau: độc lập trong thực tế và độc lập trong biểu hiện. Độc lập trong thực tế là thái độ, tinh thần không thiên vị của kiểm toán viên. Độc lập về biểu hiện là bên quan sát cho rằng kiểm toán viên không có mối quan hệ nào khác với khách hàng kiểm toán có thể gây ra xung đột lợi ích. Tuy nhiên, tính độc lập trong thực tế lại không thể quan sát được (Beattie và cộng sự, 1998).

Thực tế là kiểm toán viên vừa phải thực hiện công việc kiểm toán của mình vừa phải duy trì việc kinh doanh và thu phí kiểm toán của khách hàng, vì vậy họ có thể không muốn làm bất cứ điều gì gây nguy hại cho khoản thu nhập này. Bên cạnh đó, kiểm toán viên có thể cung cấp các dịch vụ phi kiểm toán và tạo ra xung đột trong vai trò của họ, các xung đột này có thể ảnh hưởng tiêu cực tới việc kiểm toán viên thực hiện kiểm toán một cách khách quan. ISA 210 đòi hỏi kiểm toán viên phải xác nhận mức độ độc lập trước khi chấp nhận ký hợp đồng. Nếu không đảm bảo tính độc lập, ý kiến đánh giá của kiểm toán viên có thể không còn khách quan và


điều này khiến cho công việc kiểm toán không đáp ứng được kỳ vọng của người sử dụng thông tin.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.

Rabinowitz (1996) đã nghiên cứu sự gia tăng trách nhiệm, tính độc lập của kiểm toán viên và nhận thấy một số thiếu sót liên quan đến độc lập của kiểm toán viên trong quy trình kiểm toán đã làm suy giảm niềm tin của công chúng vào nghề nghiệp kiểm toán. Akther và Xu (2020) cũng tin rằng nhận thức của kiểm toán viên về tính độc lập có thể làm giảm khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán thông qua việc làm gia tăng sự hài lòng của các bên có liên quan đối với kết quả kiểm toán. Hơn nữa, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy vai trò của giám sát kiểm toán từ một bên độc lập có thể đóng vai trò tích cực trong việc duy trì sự độc lập của kiểm toán viên nhằm thu hẹp khoảng cách kỳ vọng. Tuy nhiên, nghiên cứu thực nghiệm của Awuor (2018) lại cho thấy không có mối quan hệ đáng kể về ý nghĩa thống kê giữa tính độc lập của kiểm toán viên và khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán (giá trị p > 0,05) mặc dù kết quả cho thấy tính độc lập của kiểm toán viên có khả năng thu hẹp khoảng cách này (giá trị Beta < 0).

Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Adeyemi và Uadiable (2011) khi nghiên cứu này cho rằng kiểm toán viên có thể không đưa ra đánh giá khách quan cho người sử dụng thông tin khi họ là những cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp cho các doanh nghiệp có thu phí. Nghiên cứu của Kamau (2013) tại Keynia cũng cho kết quả tương tự của Awuor (2018) khi cho thấy bản chất của mối quan hệ nghịch giữa tính độc lập của kiểm toán viên và khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán và mức ý nghĩa của nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tính độc lập của kiểm toán không phải là nhân tố có ảnh hưởng đáng kể về ý nghĩa thống kê tới khoảng cách kỳ vọng.

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán báo cáo tài chính các công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 7

Nhìn chung, tính độc lập của kiểm toán viên giúp thu hẹp khoảng cách kỳ vọng cho dù mức độ ảnh hưởng này có thể là đáng kể hoặc không đáng kể trong các nghiên cứu thực nghiệm khác nhau.

1.2.5. Năng lực của kiểm toán viên‌

Nhân tố năng lực của kiểm toán viên có ảnh hưởng tới khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán đã được đề cập tới trong một số nghiên cứu như nghiên cứu của Gloeck và Jager (1993), Swift và Dando (2002), Kamau (2013), Alani (2014),

Fulop (2017), Awuor (2018).

Năng lực của kiểm toán viên được hiểu là khả năng thực hiện nhiệm vụ theo những chuẩn mực nghề nghiệp đã được thiết lập. Một kiểm toán viên có năng lực là


người sở hữu bộ kỹ năng được áp dụng trong việc tiếp cận và thực hiện vai trò của mình một cách hiệu quả (Agyei và cộng sự, 2013). Flint (1988) cho rằng năng lực kiểm toán là sự kết hợp của cả kỹ năng và kiến thức, năng lực này có được thông qua giáo dục, đào tạo nghề nghiệp và kinh nghiệm làm việc của kiểm toán viên. Theo IFAC’s (2017), kiểm toán viên cần có cả kiến thức, kỹ năng, thái độ và các giá trị đạo đức nghề nghiệp. Theo Agyei và cộng sự (2013), đạo đức nghề nghiệp và năng lực có mối quan hệ chặt chẽ với chất lượng kiểm toán. Chính vì vậy, năng lực của kiểm toán viên được đánh giá là có ảnh hưởng tới khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán, cụ thể là khoảng cách chất lượng kiểm toán.

Goodson (1990) cho rằng sự chỉ trích của công chúng phát sinh trong trường hợp kiểm toán viên thực hiện các hợp đồng thuộc các lĩnh vực mà họ không được đào tạo (trích dẫn từ Gloeck và Jager, 1993). Nghiên cứu của Macdonald (1988) đã cho rằng kiến thức và việc đào tạo chuyên môn cho kiểm toán viên là một khía cạnh góp phần thu hẹp khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán. Nghiên cứu thực nghiệm của Kamau (2013) cũng đưa ra kết quả kỹ năng của kiểm toán viên giúp thu hẹp khoảng cách kỳ vọng đáng kể về ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của Awuor (2018) lại cho thấy không có mối quan hệ đáng kể về ý nghĩa thống kê giữa năng lực của kiểm toán viên và khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán (p-value

> 0.05) nhưng kết quả vẫn cho thấy năng lực kiểm toán vẫn làm giảm khoảng cách này, cụ thể năng lực kiểm toán viên thay đổi 1 đơn vị thì sự khác biệt giảm 0,017 đơn vị.

Năng lực của kiểm toán viên ảnh hưởng tới khoảng cách kỳ vọng còn được xem xét từ góc độ tuân thủ sự thận trọng nghề nghiệp và các chuẩn mực kiểm toán khi thực hiện công việc của mình. Kiểm toán viên cần thu thập đầy đủ các bằng chứng thích hợp để có thể đưa ra ý kiến độc lập, khách quan. Nếu không có những nỗ lực cần thiết, kiểm toán viên có thể không thu thập đủ các bằng chứng thích hợp và dẫn tới việc đưa ra ý kiến không phù hợp với báo cáo tài chính được kiểm toán. Nếu các bằng chứng cho thấy kiểm toán viên đã sơ suất và không thực hiện công việc kiểm toán thận trọng một cách hợp lý thì kiểm toán viên có thể phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại này (Alawi và cộng sự, 2018).

Nghiên cứu của Lee và cộng sự (2009) tại Malaysia đã đưa ra một số nguyên nhân gây ra khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán trong đó có nguyên nhân kiểm toán thực hiện công việc thấp hơn yêu cầu trong chuẩn mực. Theo Zikmund (2008), kiểm toán viên được yêu cầu thực hiện công việc của họ với mức độ hoài nghi nghề


nghiệp nhất định. Zikmund (2008) cũng tin rằng có hai nhân tố làm gia tăng khoảng cách chất lượng kiểm toán bao gồm: khả năng phát hiện gian lận của kiểm toán viên (trong đó kiểm toán viên có thể sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau nhưng thiếu kinh nghiệm để phát hiện ra các dấu hiệu một cách hiệu quả); và nỗ lực phát hiện gian lận của kiểm toán viên (trong đó kiểm toán viên có thể có các kỹ năng phát hiện gian lận nhưng có thể lựa chọn cách thực hiện không phù hợp hoặc bỏ qua các dấu hiệu rõ ràng về gian lận).

Như vậy, kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy năng lực của kiểm toán viên có khả năng thu hẹp khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của nhân tố này tới sự khác biệt trong các nghiên cứu khác nhau có thể là đáng kể hoặc không đáng kể về ý nghĩa thống kê.

1.2.6. Chuẩn mực về báo cáo kiểm toán‌

Báo cáo kiểm toán là sản phẩm cuối cùng của quá trình kiểm toán, được thiết kế nhằm trình bày quan điểm của kiểm toán viên tới người sử dụng thông tin có liên quan. Mặc dù các báo cáo kiểm toán có thể khác nhau về mặt cấu trúc, nhưng chúng đều phải thông báo cho người sử dụng biết về mức độ phù hợp của thông tin trên báo cáo tài chính đối với các tiêu chuẩn đã được công nhận. Cook và Winkle (1980) cho rằng báo cáo kiểm toán là khía cạnh duy nhất mà công chúng có thể nhìn nhận được công việc kiểm toán đã được thực hiện. Báo cáo kiểm toán được coi là kênh giao tiếp duy nhất giữa kiểm toán viên và người sử dụng thông tin. Mặc dù đóng vai trò rất quan trọng trong việc truyền tải thông tin giữa kiểm toán viên và người sử dụng nhưng lịch sử phát triển của kiểm toán lại cho thấy báo cáo kiểm toán chưa làm tròn trách nhiệm này.

Trong thời kỳ sử dụng báo cáo kiểm toán dạng ngắn, rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng người sử dụng thông tin hiểu nhầm ý kiến của kiểm toán viên (Estes, 1982). Chính vì vậy, khuyến nghị được đưa ra nhằm khắc phục sự hiểu nhầm của công chúng đó là: cần có một báo cáo kiểm toán mở rộng hơn và linh hoạt hơn để truyền tải cả nội dung quản lý và trách nhiệm kiểm toán viên một cách rõ ràng và chính xác. Các nghiên cứu được thực hiện bởi ủy ban Cohen (1978), Ủy ban Metcalf (1978), ủy ban Adams (1977), MacDonald (1988)… đã chỉ ra rằng sự hiểu nhầm liên quan đến kiểm toán và kiểm toán viên có thể được làm sáng tỏ bằng báo cáo kiểm toán dạng dài.

Sau khi báo cáo kiểm toán dạng dài ra đời, Kelly và Mohrweis (1989) nhận thấy nhận thức của người sử dụng thông tin về bản chất của kiểm toán đã thay đổi


đáng kể nhờ có sự thay đổi từ ngữ sử dụng trong báo cáo kiểm toán. Miller và cộng sự (1990) cũng đưa ra kết luận các nhà quản lý và nhân viên ngân hàng tin rằng báo cáo kiểm toán mở rộng sẽ hữu ích và dễ hiểu hơn báo cáo dạng ngắn trước kia. Nair và Rittenberg (1987) cho thấy nhận thức của người sử dụng thông tin về trách nhiệm của nhà quản lý doanh nghiệp và kiểm toán viên đã thay đổi đáng kể sau khi báo cáo kiểm toán được mở rộng. Nhìn chung, các nghiên cứu đều cung cấp bằng chứng cho thấy báo cáo kiểm toán mở rộng làm gia tăng sự hiểu biết của người sử dụng thông tin về phạm vi, bản chất và tầm quan trọng của kiểm toán và có ảnh hưởng tích cực tới nhận thức của người đọc báo cáo liên quan đến kiểm toán và vai trò của kiểm toán viên.

Như vậy, các nghiên cứu về khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán có thể bắt nguồn từ hạn chế của báo cáo kiểm toán khi không chỉ ra một cách rõ ràng cho người sử dụng các thông tin liên quan đến trách nhiệm của kiểm toán viên, trách nhiệm của các nhà quản lý, mức độ đảm bảo của kiểm toán… Mặt khác, các thuật ngữ chuyên môn sử dụng trong kiểm toán có thể bị hiểu sai vì người sử dụng không có các kiến thức kiểm toán cần thiết (Holt và Moizer, 1990). Ogbona và Appah (2014) đã chỉ ra rằng bản chất của các chức năng kiểm toán càng trở nên phức tạp bởi những thuật ngữ chuyên môn được sử dụng trong các báo cáo kiểm toán như “trung thực và khách quan”, “hợp lý”, “trọng yếu”. Và hậu quả là người sử dụng thông tin có thể không biết cách diễn giải được nội dung của các thuật ngữ này. Điều này cũng có thể được giải thích bởi lý thuyết hồi đáp của người đọc, vì người sử dụng thông tin nhận thức thông tin được truyền tải trên báo cáo kiểm toán dựa vào nền tảng kiến thức và kinh nghiệm của họ. Hơn nữa, người sử dụng có xu hướng chỉ tập trung vào đoạn ghi ý kiến của kiểm toán viên trên báo cáo kiểm toán.

Vì cách truyền đạt thông tin có thể làm xói mòn niềm tin của công chúng đối với báo cáo kiểm toán, đưa đến các quyết định không phù hợp và những vụ kiện tụng không cần thiết nên các tổ chức ban hành chuẩn mực cần có sự quan tâm đúng mức đối với vấn đề này (Viện kế toán công chứng Hoa Kỳ AICPA, 1978).

1.2.7. Các chuẩn mực kiểm toán chưa đầy đủ‌

Theo Porter (1993), khoảng cách chuẩn mực là khoảng cách giữa các trách nhiệm của kiểm toán viên được kỳ vọng một cách hợp lý và các trách nhiệm hiện hành của họ trong chuẩn mực kiểm toán. Sikka và cộng sự (1998) cho rằng nguyên nhân tồn tại khoảng cách này là do các tiêu chuẩn cho dù được quy định bởi luật


pháp hay tổ chức nghề nghiệp hay các cơ quan khác mà kiểm toán viên dự kiến tuân theo là chưa đầy đủ.

Nhiều quốc gia đã lấy ISAs làm nền tảng để xây dựng các chuẩn mực nghề nghiệp và có bổ sung thêm các yêu cầu mới với mục đích làm cho hệ thống chuẩn mực này phù hợp với thị trường nội địa hơn. Tuy nhiên, theo báo cáo của ROSC (World bank report on the Observance of standards and codes – Báo cáo của ngân hàng thế giới về việc tuân thủ các chuẩn mực và nguyên tắc), các chuẩn mực kiểm toán tại các quốc gia vẫn còn thiếu sót do ảnh hưởng của yếu tố chính trị hoặc việc vận động hành lang trong các hoạt động xây dựng chuẩn mực và các chuẩn mực nghề nghiệp thiếu các nguyên tắc chi tiết. Ví dụ, ở nhiều quốc gia tồn tại sự tranh cãi về việc phát hiện gian lận có nên được công nhận là trách nhiệm của kiểm toán viên trong luật định hay không? Một số quốc gia cho rằng phạm vi kiểm toán phải được mở rộng hơn so với các yêu cầu trong chuẩn mực kiểm toán quốc tế hiện tại và việc phát hiện gian lận nên được khẳng định là nghĩa vụ của kiểm toán viên. Mặt khác, chuẩn mực kiểm toán nên trình bày rõ ràng và chi tiết hơn về mức độ chịu trách nhiệm của kiểm toán viên đối với các gian lận.

Theo nghiên cứu của Lee và cộng sự (2009), các chuẩn mực nghề nghiệp tại Malaysia chưa chỉ ra một cách rõ ràng các trách nhiệm của kiểm toán viên liên quan đến phát hiện gian lận và các hoạt động bất hợp pháp. Cosserat (2004) cho rằng kể từ vụ sụp đổ của Enron và Worldcom, các chuẩn mực kiểm toán đã được sửa đổi nhằm nhấn mạnh trách nhiệm của kiểm toán viên liên quan đến việc phát hiện gian lận. Theo đó, trước sự sụp đổ của Enron và Worldcom, các chuẩn mực đã nhấn mạnh vào sự trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính, bất kể sai sót là vô tình hay cố ý. Cosserat (2004) tin rằng sự kiện Enron và Worldcom đã cho thấy cách tiếp cận như vậy khiến cho kiểm toán viên không quan tâm đúng mức đối với việc nhà quản lý có chủ ý tạo ra các báo cáo tài chính gian lận hay không. Chính vì vậy, chuẩn mực kiểm toán ISA 240 “Trách nhiệm kiểm toán viên liên quan đến gian lận trong cuộc kiểm toán báo cáo tài chính” và ISA 315 “Nhận diện và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu” đã ra đời nhằm làm rõ hơn trách nhiệm của kiểm toán viên liên quan đến các khía cạnh nêu trên.

Bên cạnh đó, nghiên cứu của Porter và Gowthorpe (2004) cho rằng cần kiểm soát tốt hơn việc thực hiện công việc của kiểm toán viên. Việc gia tăng chất lượng kiểm soát tại các công ty kiểm toán đòi hỏi sự ra đời của chuẩn mực kiểm toán mới


trong việc đảm bảo chất lượng thực hiện của kiểm toán viên, điều này sẽ giúp thu hẹp khoảng cách chất lượng kiểm toán.

1.3. Khoảng trống nghiên cứu‌

Như vậy, các nghiên cứu về khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán không chỉ lớn về mặt số lượng mà còn rất đa dạng về nội dung. Các nghiên cứu của Liggio (1974), Ủy ban Cohen (1978), Porter (1993), AICPA (1993) … đã xác lập được các khái niệm khác nhau về khoảng cách kỳ vọng. Bên cạnh đó, các nghiên cứu của MacDonald (1988), Hatherly và cộng sự (1991), Porter (1993), Innes và cộng sự (1997) … cũng đưa ra được mô hình cấu trúc của khoảng cách kỳ vọng. Các nghiên cứu đã chỉ ra sự tồn tại của khoảng cách kỳ vọng liên quan đến các khía cạnh khác nhau như trách nhiệm của kiểm toán viên, thông tin truyền tải trên báo cáo kiểm toán, mức độ đảm bảo của kiểm toán.

Mặc dù các nghiên cứu về khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán rất đa dạng, phong phú nhưng vẫn còn những khoảng trống nghiên cứu như:

1. Khoảng cách kỳ vọng vẫn được còn là thuật ngữ khá mới mẻ tại Việt Nam, số lượng các nghiên cứu về chủ đề này tại Việt Nam còn hạn chế đặc biệt là các nghiên cứu thực nghiệm.

2. Các nghiên cứu về khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán được đặt trong các bối cảnh không gian và thời gian khác nhau sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn vấn đề nghiên cứu và đóng góp cho sự phát triển của khoa học kiểm toán. Hơn nữa, với bối cảnh Việt Nam là một quốc gia có thị trường chứng khoán và dịch vụ kiểm toán còn non trẻ với khoảng 30 năm hình thành và phát triển, các kết luận, phát hiện của nghiên cứu có thể phù hợp hoặc trái ngược với kết quả của các nghiên cứu trước đây sẽ là cơ sở tổng kết bài học kinh nghiệm quốc tế hoặc có các điều chỉnh kịp thời từ cơ quan quản lý nhà nước nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của thị trường kiểm toán tại Việt Nam.

3. Các nghiên cứu thực nghiệm về khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán có 2 cách thức tiếp cận chính: trong khi một số nghiên cứu xem xét sự khác biệt từ cả phía kiểm toán viên và người sử dụng thông tin thì một số nghiên cứu khác chỉ nhìn nhận sự khác biệt từ phía người sử dụng thông tin. Trong đó, cách tiếp cận từ phía người sử dụng thông tin được đánh giá là phù hợp với thuật ngữ “khoảng cách kỳ vọng” cũng như đảm bảo tính khách quan của kết quả nghiên cứu. Để đo lường khoảng cách kỳ vọng theo cách tiếp cận này, hầu hết các nghiên cứu đều kế thừa phương pháp của Porter (1993). Theo đó, kết quả của các nghiên cứu chỉ ra các


trách nhiệm kiểm toán cấu thành nên các thành phần khoảng cách cũng như tỷ lệ % của các loại khoảng cách (khoảng cách hợp lý, khoảng cách chuẩn mực, khoảng cách chất lượng kiểm toán) với mặc định khoảng cách kỳ vọng là 100% mà không cho biết độ lớn cụ thể của khoảng cách này. Chính vì vậy, một số nghiên cứu sau này đã kế thừa phương pháp và kết quả của Porter (1993) để xác định các trách nhiệm của kiểm toán viên cấu thành khoảng cách kỳ vọng, sau đó dùng thang đo Likert để đo lường khoảng cách kỳ vọng. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu này, khoảng cách kỳ vọng lại được đo lường bằng sự khác biệt đáng kể giữa quan điểm của kiểm toán viên và người sử dụng thông tin. Điều này khiến cho các nghiên cứu trên thiếu đi tính nhất quán giữa việc xác định các trách nhiệm cấu thành khoảng cách (chỉ từ phía người sử dụng thông tin) và việc đo lường khoảng cách kỳ vọng (từ phía người sử dụng thông tin và kiểm toán viên). Hơn nữa, phương pháp đo lường trên đã làm mất đi ý nghĩa về tính khách quan của việc tiếp cận khoảng cách kỳ vọng từ phía người sử dụng thông tin.

4. Các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào xây dựng cơ sở lý luận, chứng minh sự tồn tại của khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán trong thực tiễn cũng như xác định các thành phần cấu thành khoảng cách kỳ vọng nhưng lại chưa quan tâm đúng mức tới các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới khoảng cách kỳ vọng. Một số nghiên cứu có đề cập tới nhân tố ảnh hưởng nhưng còn phân tán, kết quả chưa nhất quán và còn nhiều điểm chưa được làm rõ.

Chính vì vậy, luận án xác lập mục tiêu là nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về sự tồn tại của khoảng cách kỳ vọng và ảnh hưởng của các nhân tố tới khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán trong bối cảnh của Việt Nam. Khoảng cách kỳ vọng trong luận án được tiếp cận từ phía người sử dụng thông tin nhằm đảm bảo tính khách quan. Với cách tiếp cận này, luận án kế thừa khái niệm, cấu trúc khoảng cách kỳ vọng của Porter (1993). Tuy nhiên, bên cạnh việc chỉ ra các khía cạnh tồn tại khoảng cách kỳ vọng, luận án còn đo lường khoảng cách kỳ vọng trong thực tế. Về các nhân tố ảnh hưởng tới khoảng cách kỳ vọng, luận án không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này tới khoảng cách kỳ vọng nói chung mà còn đo lường mức độ ảnh hưởng tới từng thành phần của khoảng cách kỳ vọng bao gồm: khoảng cách hợp lý, khoảng cách chuẩn mực và khoảng cách chất lượng kiểm toán.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/10/2022