Một Số Phương Pháp Định Lượng Mesalamin Trong Huyết Tương

Quá trình thực hiện luận án cần phải định lượng nồng độ mesalamin trong huyết tương sau khi cho động vật thí nghiệm uống viên nghiên cứu. Do dạng bào chế pellet mesalamin bao film giải phóng tại đại tràng lần đầu tiên được nghiên cứu ở Việt Nam. Vì thế, việc xây dựng và thẩm định quy trình định lượng mesalamin trong huyết tương là yêu cầu bắt buộc. Một số phương pháp định lượng mesalamin trong huyết tương bằng sắc ký lỏng khối phổ được trình bày ở bảng sau:

Bảng 1.3. Một số phương pháp định lượng mesalamin trong huyết tương


STT

Tác giả

Phương pháp


1

Juan Qin và cộng sự [51].

+ Phương pháp chiết: kết tủa protein bằng methanol

+ Chuẩn nội: Diazepam

+ Giới hạn định lượng dưới (LLOQ): 50 ɳg/ml

+ Đường tuyến tính: 50–30000 ng/ml

+ Thiết bị: LC-MS/MS Shimadzu

+ Cột: Waters Spherisorb C6 (150 x 4,6 mm, 5 μm)

+ Pha động: acid formic 0,2 % - methanol (20 : 80)

+ Thể tích tiêm: 10 µl

+ Thuốc sử dụng: 2 viên thuốc đạn, mỗi viên chứa 167 mg mesalamin

+ Thời điểm lấy mẫu: 0,5 ; 1; 2; 3; 4; 5; 6; 7; 8; 10; 12; 24;

36; 48 giờ


2

Kanchanam ala Kanala và cộng sự [52].

+ Phương pháp chiết: Chiết lỏng – lỏng

+ Chuẩn nội: N-acetyl mesalamin D3

+ Giới hạn định lượng dưới (LLOQ): 2 ɳg/ml

+ Đường tuyến tính: 2 – 1500 ng/ml đối với mesalamin và 10 – 2000 ng/ml đối với N-acetyl mesalamin

+ Thiết bị: Hệ sắc ký lỏng của Agilent, khối phổ API 4200

+ Cột: C18 (150 x 4,6 mm, 5 m)

+ Pha động: amoni acetat 10 mM-methanol (85:15)

+ Thể tích tiêm: 5 µl

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 299 trang tài liệu này.

Nghiên cứu bào chế pellet mesalamin giải phóng tại đại tràng - 6




+ Thuốc sử dụng: Viên mesalamin 400 mg cho 34 người tình nguyện

+ Thời điểm lấy mẫu: 2; 3; 4; 5; 6; 7; 8; 9; 10; 11; 12,5; 14;

16; 18; 20; 22; 24; 26; 28; 30; 32; 36; 40; 44; 48; 60; 72;

84 và 96 giờ


3

Alex Yu và cộng sự [18].

+ Phương pháp chiết: Kết tủa protein bằng acetonitril

+ Chuẩn nội: 4-ASA

+ Giới hạn định lượng dưới (LLOQ): 5 ng/ml

+ Đường tuyến tính: 5 ng/mL to 2 μg/mL cho mesalamin và Ac-5-ASA

+ Thiết bị: Hệ sắc ký lỏng của Shimadzu, khối phổ API 5500

+ Cột: C18 (15 cm x 4,6 mm, 3,5 μm)

+ Pha động: acid formic 0,1 % và acetonitril

+ Thuốc sử dụng: Dung dịch mesalamin (100 mg), Pentasa (500 mg mesalamin x 2 viên nang), Apriso (375 mg mesalamin x 3 viên nang) và Lialda (1200 mg mesalamin x 1 viên)

+ Thời điểm lấy mẫu: 0; 0,5; 1; 2; 3; 4; 6; 7; 8; 10; 12; 24;

48 và 72 giờ


4

Gu GZ và cộng sự [40].

+ Phương pháp chiết: Kết tủa protein bằng 0,3 ml methanol

+ Chuẩn nội: Dimenhydrinat

+ Giới hạn định lượng (LOQ): 10 ɳg/ml

+ Đường tuyến tính: 10 – 10,000 ɳg/ml cho sulphasalazin và 10 – 1000 ɳg/ml cho sulphapyridin và mesalamin

+ Thiết bị: API-3000 LC-MS/MS

+ Cột: XBP Phenyl (100mm x 2,1 mm, 5 µm)




+ Pha động: Acid formic 0,2%, amoni acetat 2mM trong nước (pha động A) và acid formic 0,2%, amoni acetat trong methanol 2mM (pha động B) tách gradient

+ Thể tích tiêm: 10 µl

+ Thuốc sử dụng: Viên sulphasalazin 250 mg cho 10 người tình nguyện

+ Thời điểm lấy mẫu: 0; 1; 2; 3; 3,5; 4; 4,5; 5; 6; 7; 8; 10;

12; 15; 24; 36 và 48 giờ


5

Pastorini E và cộng sự [76].

+ Phương pháp chiết: Kết tủa protein bằng 1ml methanol

+ Chuẩn nội: 4-ASA và N-Ac-4-ASA

+ Giới hạn định lượng (LOQ): 50 ɳg/ml

+ Đường tuyến tính: 50 – 4000 ɳg/ml

+ Thiết bị: HPLC

+ Cột: Synergi Hydro-RP (4 µm, 150 mm x 2,0 mm) bảo vệ bởi cột (4 µm, 10 mm x 2,0 mm), cả 2 cột được cung cấp bởi Phenomenex

+ Pha động: Acid acetic 17,5 mmol/l (pH 3,3) : acetonitril tỉ lệ 85:15

+ Thể tích tiêm: 4 µl

+ Thuốc sử dụng: Viên mesalamin 1200 mg cho 24 người tình nguyện

+ Thời điểm lấy mẫu: 0; 1; 2; 4; 6; 8; 12; 18; 24; 32 và 48 giờ


6

Nobilis M và cộng sự [72].

+ Phương pháp chiết: Kết tủa protein bằng HClO4

+ Chuẩn nội: N-acetyl-4-ASA và N-propionyl-4-ASA

+ Giới hạn định lượng (LOQ): 43,3 ɳg/ml

+ Đường tuyến tính: 43,3 – 4966,7 ɳg/ml

+ Thiết bị: HPLC, MS




+ Cột: LiChroCART (250 mm x 4 mm) và tiền cột LiChroCART®

+ Pha động: Acetonitril – Na2HPO4 0,01M đệm pH 3 với tỉ lệ 15:85

+ Thể tích tiêm: 100 µl

+ Thuốc sử dụng: Viên mesalamin 500 mg cho 14 người tình nguyện

+ Thời điểm lấy mẫu: : 0; 0,33; 0.67; 1; 2; 3; 4; 5; 6; 8; 12;

24 và 32 giờ

Một số nghiên cứu in vivo viên mesalamin giải phóng tại đại tràng

Amandeep Singh và cộng sự (2021) đánh giá hấp thu in vivo pellet mesalamin kiểm soát giải phóng tại đại tràng trên chuột Wistar cân nặng 190 – 260 g. Chuột thí nghiệm được uống pellet nhân chứa mesalamin và pellet bao mesalamin giải phóng tại đại tràng sử dụng màng bao kiểm soát giải phóng chứa cellulose acetat phthalat. Chuột được uống với liều 23 mg/kg, sau đó định lượng nồng độ mesalamin hấp thu trong máu bằng phương pháp HPLC. Kết quả nghiên cứu cho thấy chuột uống pellet nhân chứa mesalamin đạt Tmax là 0,82 ± 0,19 giờ, nhanh hơn rất nhiều so với chuột uống pellet mesalamin bao kiểm soát giải phóng tại đại tràng với Tmax là 5,91 ± 0,77. Ngoài ra, nồng độ Cmax trên chuột uống pellet nhân là 3,15 ± 0,98 mg/ml, cao hơn nhiều so với nồng độ Cmax trên chuột uống pellet bao là 1,06 ± 0,37 mg/ml. Diện tích dưới đường cong AUC của pellet nhân (14,05 ± 1,53 µg/ml/giờ) lớn hơn so với pellet bao (13,02 ± 1,31 µg/ml/giờ). Mesalamin ít hấp thu ở đại tràng do có đặc tính thân nước nên chỉ một lượng nhỏ được hấp thu vào máu qua màng lipid [20].

Phương pháp phân tích nồng độ mesalamin trong huyết tương cũng được C. Parmar và cộng sự (2018) áp dụng để đánh giá hấp thu in vivo viên mesalamin giải phóng tại đại tràng trên mô hình thỏ thí nghiệm, qua đó chứng minh thuốc giải phóng phần lớn ở đại tràng so với dạng bào chế nhanh hấp thu mesalamin chủ yếu ở phần trên đường tiêu hóa. [27]

Ngoài ra, để đánh sự hấp thu mesalamin in vivo của dạng bào chế giải phóng tại đại tràng, A. Foppoli và cộng sự (2019) đã định lượng mesalamin và chất chuyển

hóa của nó N-acetyl 5-ASA (Ac5-ASA) trong huyết tương và nước tiểu người tình nguyện bằng phương pháp HPLC để đánh giá sự hấp thu và giải phóng của thuốc giải phóng tại đại tràng trong đường tiêu hóa người tình nguyện [11]

Qua tổng quan các nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới. Các nghiên cứu trong luận án được định hướng như sau:

Pellet kiểm soát giải phóng tại đại tràng gồm nhân và màng bao kiểm soát giải phóng. Nhân pellet chứa dược chất được bào chế theo phương pháp đùn – tạo cầu và màng bao kiểm soát giải phóng được bào chế bằng phương pháp bao tầng sôi.

Polyme kiểm soát giải phóng là Eudragit S100, zein hoặc có thể kết hợp thêm một polyme không tan trong nước như ethylcellulose nhằm mục đích làm chậm quá trình giải phóng dược chất.

Phương pháp đánh giá giải phóng in vitro, nghiên cứu định hướng thử trong 3 môi trường pH 1,2; đệm phosphat pH 7,4 và đệm phosphat pH 6,8. Phương pháp đánh giá giải phóng in vivo, nghiên cứu sử dụng phương pháp chụp X-quang để xác định vị trí pellet trong đường tiêu hóa chó thí nghiệm, định lượng hàm lượng dược chất trong huyết tương bằng phương pháp sắc ký lỏng khối phổ.

1.4. PELLET

1.4.1. Khái niệm

Pellet là những “hạt thuốc nhỏ” có dạng hình cầu hoặc gần cầu, thường có đường kính từ 0,25 đến 1,5 mm. Bản thân pellet không phải là một dạng bào chế hoàn chỉnh mà chỉ là những chế phẩm trung gian hoặc bán thành phẩm phải được đóng gói, nang cứng hoặc dập thành viên mới tạo thành các chế phẩm hoàn chỉnh [7].

1.4.2. Thành phần pellet

Pellet là sản phẩm trung gian để bào chế thành dạng thuốc rắn. Về cơ bản, pellet có các thành phần như sau:

Tá dược tạo cầu

Tá dược tạo cầu là những chất có khả năng tạo cho các đoạn sợi hình trụ được đùn/ép ra từ máy đùn có đủ độ dẻo cần thiết để khi chuyển động liên tục trong thiết bị vo/tạo cầu có thể biến dạng thành các pellet hình cầu hoàn chỉnh. Tá dược tạo cầu

là các loại cellulose vi tinh thể (microcrystalline cellulose, MCC), thường được ứng dụng là Avicel PH. Các tá dược khác như calci phosphat, lactose, tinh bột, tinh bột biến tính hoàn toàn không có khả năng tạo cầu [7].

Tá dược độn

Lactose, manitol, sacarose, tinh bột, cellulose vi tinh thể được sử dụng làm tá dược độn trong xây dựng công thức pellet bào chế bằng kỹ thuật đùn - tạo cầu [7].

Tá dược dính

Là thành phần bắt buộc phải có khi bào chế pellet bằng kỹ thuật đùn - tạo cầu. Tá dược dính có thể được phối hợp vào thành phần của pellet dưới dạng tá dược dính lỏng hoặc được phối hợp vào thành phần pellet dưới dạng bột khô cùng dược chất và các tá dược khác, rồi thêm nước hoặc dung môi thích hợp (dung dịch ethanol, alcol isopropylic) vào khối bột kép và nhào ẩm [7].

Tá dược rã

Là thành phần thiết yếu khi bào chế pellet giải phóng ngay bằng kỹ thuật đùn

- tạo cầu, làm cho pellet rã nhanh, giải phóng dược chất nhanh. Trong quá trình bào chế, lực ép khi đùn sợi đã làm giảm đáng kể mật độ và kích thước các lỗ xốp trong pellet, làm giảm mao dẫn nước vào trong pellet, trì hoãn quá trình trương nở của tá dược rã để phá vỡ cấu trúc pellet. Các tá dược siêu rã hay sử dụng trong bào chế pellet giải phóng ngay là tinh bột biến tính như natri starch glycolat, natri croscarmelose, crospovidon… [7].

Tá dược trơn

Tá dược trơn làm giảm lực ma sát giữa bề mặt của khối bột ẩm đang ép sợi với bề mặt lỗ sàng của máy đùn, giúp cho khối bột ẩm dễ dàng đi qua mắt sàng để tạo ra các sợi ép hình trụ không dính lại với nhau và không dính với mắt sàng; đồng thời sự có mặt của tá dược trơn làm giảm sinh nhiệt do ma sát trong quá trình đùn/ép sợi. Trong quá trình vo/tạo cầu, sự có mặt của tá dược trơn làm cho các đoạn sợi hình trụ không dính vào nhau khi chuyển động trong thiết bị vo/tạo cầu; song cần lưu ý, nếu thừa tá dược trơn thì đĩa ma sát của thiết bị vo/tạo cầu vẫn quay tròn, còn các pellet không chuyển động mà tụ lại với nhau thành khối, làm giảm độ cầu của pellet thu

được. Có thể sử dụng talc, silic dioxyd keo (Aerosil 200), kaolin, natri lauryl sulfat…, làm tá dược trơn [7].

Tá dược tăng khả năng giải phóng dược chất từ pellet

Để đảm bảo độ hòa tan dược chất, nhất là các dược chất ít tan, từ pellet bào chế bằng kỹ thuật đùn - tạo cầu, có thể phối hợp vào pellet các chất trợ tan là các chất diện hoạt như các polysorbat, các poloxamer, natri lauryl sulfat hoặc các dung môi không bay hơi để tạo hệ rắn - lỏng (liquisolid) như propylen glycol, polyethylen glycol 200 - 400, cremophor hoặc sử dụng các tá dược có khả năng tạo vi môi trường pH như natri citrat, natri hydrocarbonat, natri phosphat, meglumin kết hợp với dược chất bản chất là các acid yếu hoặc các acid hữu cơ như acid citric, acid tartaric, acid fumaric, acid sucinic kết hợp với dược chất bản chất là các base yếu [7].

Tá dược ổn định dược chất

Nếu thành phần dược chất đưa vào bào chế pellet kém ổn định dưới tác động của oxy, ẩm, pH không thích hợp… thì cần phối hợp vào pellet các tá dược thích hợp để ổn định dược chất [7].

Tá dược bao màng

Với các pellet giải phóng ngay, quy trình bào chế pellet có thể kết thúc khi thu được sản phẩm pellet đạt các tiêu chuẩn chất lượng mong muốn. Nhưng để bào chế được các pellet có khả năng giải phóng dược chất biến đổi (drug modified release), tùy theo mục đích, các sản phẩm pellet sẽ tiếp tục được bao màng (film coating) sử dụng các loại tá dược bao khác nhau [7].

Tá dược bao tan ở đại tràng

Các pellet giải phóng tại đại tràng có thể được bào chế bằng cách sử dụng các biopolyme như zein kết hợp với các polyme nhạy cảm với pH và các polyme khác, với tỷ lệ thích hợp để bao màng cho pellet [7]. Zein là một protein được sản xuất dưới dạng bột từ bột gluten ngô. Dựa trên khối lượng phân tử và chuỗi đồng đẳng, zein được chia ra thành α-zein (19 – 22 kDa), β-zein (14 kDa), γ-zein (16 và 27 kDa) và δ-zein (10 kDa). Trong đó, α-zein, β-zein, γ-zein lần lượt chiếm 75 – 80 %, 10 – 15

%, 10 – 15 % trong tổng thành phần zein. Dạng δ-zein chỉ chiếm một lượng rất nhỏ

trong tổng thành phần zein. Các zein thương mại chứa chủ yếu α-zein và một lượng nhỏ β-zein và γ-zein [108]. Độ tan khác nhau của các loại zein này do cấu trúc chuỗi amino acid khác nhau. Không giống như các gluten có chứa các amino acid tan tốt trong nước, zein chứa các amino acid phân cực và không phân cực, nên có đặc tính lưỡng cực. Vì vậy, zein tan trong một số dung môi như dung dịch alcohol và kiềm; không tan trong nước và aceton [108]. Cấu trúc của zein liên quan đến tính chất hóa lý và cơ chế tự lắp ráp trong các hệ thống khác nhau. Không giống gluten, α-zein gồm các đơn vị lặp lại tương đồng cao và có lượng lớn cấu trúc α-helix, trong khi β -zein có ít cấu trúc α-helix, chủ yếu là các chuỗi β-sheet và cấu trúc không theo chu kỳ (β- turn và cuộn ngẫu nhiên). γ-zein chứa 33 % cấu trúc α-helix và 31 % cấu trúc β-sheet trong trạng thái vật lý của nó. δ-zein không có các chuỗi lặp lại hoặc cấu trúc rõ ràng. Zein hình thành cấu trúc mạng lưới protein dạng sợi khi trộn với nước ở nhiệt độ cao hơn nhiệt độ chuyển kính (Tg). Mạng lưới zein đầu tiên được quan sát trên hệ zein - tinh bột. Trong hệ này, zein, tinh bột và nước trộn lẫn trên nhiệt độ chuyển kính Tg của zein (ví dụ 30 – 40 oC), hình thành dạng nhão nhớt, bám dính và giãn nở. Mạng lưới zein nhớt có thể chỉ được hình thành khi zein bị hydrat hóa và trộn lẫn ở nhiệt độ lớn hơn Tg [108]. Zein in thường được sử dụng kết hợp với các polyme khác trong thành phần màng bao kiểm soát giải phóng tại đại tràng. Minh N.U. Nguyen và cộng sự đã sử dụng kết hợp zein mang điện tích dương và polyme Kollicoat MAE 100P có độ tan phụ thuộc pH mang điện tích âm tạo thành màng bao pellet kiểm soát giải phóng tại đại tràng theo cơ chế ăn mòn màng bao, giải phóng phần lớn dược chất ở đại tràng [65]. Ngoài ra, zein cũng có thể kết hợp với polyme bị phân hủy bởi các enzym của đường tiêu hóa trong bào chế thuốc giải phóng tại đại tràng. Wai-Wa Tang và cộng sự đã bào chế được màng bao viên nén chứa hợp chất zein-pectin bền vững ở đoạn đầu đường tiêu hóa, bị ăn mòn và giải phóng phần lớn dược chất ở đại tràng [107].

1.4.3. Phương pháp bào chế pellet

Có nhiều phương pháp bào chế pellet như đùn – tạo cầu (extrusion and spheronization), bồi dần (layering), phun sấy (spray drying), phun đông tụ (spray congealing). Trong đó, phương pháp đùn – tạo cầu là phương pháp được áp dụng

Xem tất cả 299 trang.

Ngày đăng: 16/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí