2.1.3.2. Quan điểm của BIDV về phát triển dịch vụ ngân hàng bán buôn, bán lẻ
Phát triển DVNH bán lẻ là xu hướng tất yếu của các NHTM trên thế giới và Việt Nam trong những năm gần đây. Xu hướng này không chỉ nảy sinh từ áp lực cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng (trong nước và nước ngoài) mà còn được hậu thuẫn bởi sự phát triển vượt bậc của hạ tầng kỹ thuật công nghệ cuối thế kỷ 21. Theo đó, với sự hỗ trợ của công nghệ mới, các ngân hàng có điều kiện đa dạng hóa các dịch vụ, tiện ích đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Công nghệ mới cho phép kết nối toàn hệ thống, xử lý các giao dịch tức thì, tối thiểu hóa chi phí và tối đa hóa lợi nhuận kể cả các món huy động và cho vay khiêm tốn nhất. Thêm vào đó, xu thế cá thể hóa, tư nhân hóa, cổ phần hóa mạnh mẽ nền kinh tế kết hợp với sự giàu lên của một bộ phận lớn dân cư ở các đô thị đã mở ra nhiều cơ hội cho các ngân hàng hướng thị trường mục tiêu vào các đối tượng khách hàng này hơn là chỉ tập trung vào các tập đoàn, doanh nghiệp và các định chế tài chính lớn. Suy cho cùng, nền tảng khách hàng vững chắc nhất vẫn là phân khúc thị trường khách hàng dân cư và doanh nghiệp (đặc biệt DNNVV). Sớm nhận thức ra điều này, ngay cả những ngân hàng có hạng trên thế giới như HSBC, Citibank cũng lấy bán lẻ là điểm xuất phát khi thâm nhập vào thị trường Việt Nam.. Tuy nhiên, để hoạch định đúng đắn chiến lược phát triển dịch vụ NHBL không thể không tính đến nhiều vấn đề liên quan, trong đó có vấn đề về mối quan hệ và tác động qua lại giữa phát triển DVNH bán lẻ với bán buôn, những điều kiện và lộ trình hợp lý chuyển dần từ bán buôn sang phát triển bán lẻ… BIDV xác định phát triển song hành vừa bán buôn vừa bán lẻ trong đó phát triển DVNH bán buôn phải được coi là trụ cột và chiếm tỷ trọng chủ yếu trong mối quan hệ với phát triển DVNH bán lẻ. Vì vậy, BIDV cần tập trung khai thác các nguồn tài trợ dự án lớn của các tổ chức quốc tế, các tổ chức tài chính như WB, ADB, JBIC... Đây là nguồn tài trợ vừa lớn vừa có hiệu quả cả về phương diện tài chính, lẫn phương diện kinh tế xã hội. Quản lý vốn các dự án tài chính nông thôn – WB, dự án phát triển nhà – ADB… BIDV có điều kiện thuận lợi nâng cao năng lực tài chính, năng lực và hiệu quả nguồn vốn, đặc biệt là ngoại tệ, đa dạng hoá sản phẩm, tiếp cận được các phương pháp của một ngân hàng hiện đại, tăng năng lực thể chế, có biện pháp tiên tiến giảm thiểu rủi ro, phát triển lành mạnh, nâng cao vị thế, hình ảnh thương hiệu của Ngân hàng ở trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, hoạt động ngân hàng bán buôn đòi hỏi BIDV tích cực và chủ động trong tiếp cận khách hàng là các tập đoàn kinh
tế, các tổng công ty, những dự án lớn, trọng điểm. Đầu tư tín dụng vào những khách hàng này vừa tiết kiệm được nhiều chi phí hoạt động nghiệp vụ, vừa tạo sự ổn định và tăng trưởng tín dụng cao. Hoạt động NHBB phải được coi là hòn đá tảng để hỗ trợ và thúc đẩy các hoạt động NHBL. Vì vậy, BIDV phải phát triển dịch vụ NHBB, NHBL kết hợp cả chiều rộng và chiều sâu, đảm bảo đa dạng hóa dịch vụ NHBB, NHBL gắn với chất lượng dịch vụ và xây dựng một cơ cấu DVNH bán buôn, bán lẻ tối ưu nhất trong đó chú trọng tỷ trọng của từng dòng sản phẩm bán buôn, bán lẻ để phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của BIDV.
2.2. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA BIDV GIAI ĐOẠN 2006 – 2010
2.2.1. Hệ thống ngân hàng Việt Nam trong những năm 2006 – 2010
Hội nhập kinh tế sâu rộng, đặc biệt là việc đáp ứng các yêu cầu đặt ra để chính thức trở thành thành viên WTO đã thúc đẩy quá trình cải cách nền kinh tế, đảm bảo cho Việt Nam tham gia vào chuỗi kinh tế toàn cầu. Với môi trường kinh doanh thông thoáng hơn, minh bạch hơn, thị trường rộng lớn gấp nhiều lần, đặc biệt tăng trưởng kinh tế ở mức cao, đời sống dân cư được cải thiện đã tạo ra nhu cầu to lớn về dịch vụ tài chính – ngân hàng. Bên cạnh đó, hệ thống NHTM từng bước được cải thiện theo hướng hoạt động đa năng, đa dạng về sở hữu, quy mô hoạt động và tiềm lực tài chính lớn mạnh, hướng tới một hệ thống ngân hàng hiện đại theo thông lệ quốc tế cả về mục tiêu, nhiệm vụ, chức năng hoạt động, tổ chức quản lý trình độ công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực. Điều này tạo ra những cơ hội phát triển mới cho hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, bên cạnh các cơ hội và sự phát triển nêu trên thì rủi ro, thách thức đối với hệ thống ngân hàng ngày càng phức tạp và khôn lường. Cụ thể là:
– Rủi ro tín dụng: Trong danh mục tài sản của các ngân hàng, chiếm tỷ trọng lớn vẫn là hoạt động tín dụng trong khi chất lượng tín dụng chưa cao, tỉ lệ nợ xấu lớn, tiềm ẩn rủi ro tín dụng. Năm 2010, tỉ lệ nợ xấu của các NHTM là 2.14% và tiếp tục có xu hướng tăng khi doanh nghiệp vay vốn với lãi suất cao. Đặc biệt, tỉ lệ nợ nhóm V chiếm trên 40% cơ cấu nợ xấu. Chất lượng tài sản trong danh mục cho vay của các ngân hàng vẫn là điều đáng lo ngại khi tín dụng tăng rất mạnh trong khi năng lực quản lý rủi ro của các ngân hàng còn nhiều hạn chế, yếu kém.
99
– Rủi ro thanh khoản: Rủi ro này luôn thường trực, khi huy động vốn của NHTM chủ yếu là kỳ hạn ngắn với tỷ trọng 70-80% trong tổng nguồn vốn huy động, thậm chí đối với một số ngân hàng, tỷ trọng này lên tới 90%, trong khi đó cho vay trung dài hạn chiếm đến 30-40% tổng dư nợ, thì vấn đề rủi ro thanh khoản rất dễ nảy sinh. Có thể nói, thanh khoản không đơn thuần là vấn đề ngắn hạn vì cốt lõi của thanh khoản là vấn đề nợ xấu.
– Rủi ro lãi suất trong môi trường lạm phát cao và rủi ro thanh khoản cũng đang là vấn đề lớn không thể coi thường. Do lạm phát luôn ở mức cao, biến động với biên độ lớn và thường xuyên nên lãi suất mua bán vốn trên thị trường tiền tệ, thị trường tài chính Việt Nam luôn ở mức cao và thiếu ổn định. Cộng với độ vênh lớn về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ nên rủi ro lãi suất đối với hệ thống ngân hàng cũng luôn tiềm ẩn ở mức cao.
– Đi liền với rủi ro lãi suất là rủi ro tỷ giá: Trong vài năm trở lại đây đã có những thay đổi mạnh trong cơ cấu tài sản của ngân hàng theo đồng tiền. Do áp lực lạm phát, cùng với sự biến động mạnh của giá vàng, USD, lãi suất đầu ra VNĐ cao so với khả năng sinh lời của khu vực sản xuất vật chất, lãi suất tín dụng USD lại thấp, hệ quả là các NHTM chuyển qua kinh doanh tín dụng ngoại tệ. Thực trạng này gây áp lực lớn đến thanh khoản ngoại tệ trong thời gian tới trong khi tỷ giá hối đoái luôn biến động mạnh. Hệ quả là không chỉ nhu cầu ngoại tệ trong nền kinh tế tăng, áp lực trên thị trường ngoại hối bị đẩy lên mà hệ thống NHTM đứng trước các rủi ro tỷ giá, trong khi tỷ giá VND/USD lại chịu các áp lực rất lớn từ thâm hụt cán cân vãng lai, từ nhập siêu, từ lạm phát cao và các dòng vốn vào – ra không ổn định.
Trước những thuận lợi và rủi ro đó, trong giai đoạn 2006-2010, hệ thống ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với không ít thách thức lớn:
– Thách thức thứ nhất: Làm thế nào để cung cấp và quản lý việc mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng nhằm hỗ trợ cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đầu tư.
– Thách thức thứ hai: Xác định lại vai trò tương lai của các NHTMNN trong bối cảnh thị phần của các ngân hàng này đang giảm đều trong những năm gần đây.
– Thách thức thứ ba: Trong khi các NHTMCP có những bước tiến hết sức ấn tượng trong thập kỷ qua thì vẫn còn một số NHTMCP phải đối mặt với những rủi ro nghiêm trọng. Có quá nhiều NHTMCP cạnh tranh trên cùng một phân khúc thị trường
và các ngân hàng yếu hơn sẽ không thể cạnh tranh về mặt hoạt động hoặc không thể trụ vững về tài chính trong dài hạn.
– Thách thức thứ tư: Mô hình sở hữu chéo ngày càng phức tạp nhiều NHTMCP, bao gồm cả việc tham gia các tập đoàn kinh tế, tạo ra nguy cơ mâu thuẫn về lợi ích trong công tác điều hành của các ngân hàng này. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc thành lập các tập đoàn công nghiệp tài chính dẫn đến phân bổ các nguồn lực không hiệu quả và làm tăng rủi ro đối với sự ổn định của khu vực tài chính.
– Thách thức thứ năm – thách thức cạnh tranh và hội nhập quốc tế: Với việc thực hiện cam kết mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng từ ngày 1-4-2007, áp lực cạnh tranh từ phía các ngân hàng nước ngoài đặc biệt là từ các tập đoàn ngân hàng hàng đầu đã hiện diện tại Việt Nam như: Citibank, HSBC, ANZ, Deutsche… trở nên gay gắt và trực tiếp hơn bao giờ hết.
Đặc biệt, áp lực cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng bán lẻ từ các ngân hàng nước ngoài và các NHTMCP lớn trong nước với các sản phẩm linh hoạt, hấp dẫn, điều kiện thực hiện rất thuận lợi cùng với trình độ chuyên nghiệp trong xử lý tác nghiệp thực sự là thách thức lớn ngay tại thị trường nội địa cho hoạt động bán lẻ của các ngân hàng trong nước.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng đã mở ra nhiều cơ hội cho các ngân hàng hợp tác kinh doanh với các đối tác nước ngoài, tiếp nhận và triển khai các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, nâng cao khả năng phục vụ khách hàng. Tiến vào sân chơi kinh tế toàn cầu, ngành ngân hàng được tham gia vào một thị trường bình đẳng và chuyên nghiệp hơn. Điều này vừa là cơ hội vừa là thách thức tạo ra lực đẩy để các ngân hàng phải tự đổi mới để đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về chất lượng tín dụng, chất lượng dịch vụ, quản trị rủi ro và trình độ công nghệ… Mục tiêu không chỉ là “trụ hạng” thành công trong cuộc đua tranh phát triển toàn cầu mà cao hơn thế, phải chiến thắng trong cuộc cạnh tranh quốc tế, tạo thế và lực để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam vươn lên trong hội nhập.
2.2.2. Thế mạnh và điểm yếu của BIDV khi phát triển dịch vụ ngân hàng bán buôn và bán lẻ
2.2.2.1. Thế mạnh:
– Uy tín và thương hiệu của BIDV trên thị trường trong nước và quốc tế:
BIDV với hơn 55 năm hoạt động và phát triển đã tạo dựng cho mình một vị thế thương hiệu mạnh trên thị trường tài chính hiện nay và một hình ảnh BIDV uy tín trong con mắt của khách hàng, đối tác của BIDV. Ngoài ra, BIDV đã tạo dựng được cơ sở niềm tin tốt với khách hàng trong suốt quá trình hoạt động.
Đối với khách hàng cá nhân, mức độ nhận biết thương hiệu BIDV tuy chưa cao so với một số ngân hàng khác trên thị trường nhưng đã được cải thiện vượt bậc. Những năm gần đây, khi BIDV đang đẩy mạnh hoạt động ngân hàng bán lẻ, hướng tới khách hàng cá nhân thì thương hiệu BIDV còn được ghi dấu qua cách ứng xử của mỗi cán bộ BIDV trong hoạt đồng hằng ngày, góp phần tạo nên thương hiệu BIDV.
Với vị thế là doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam do UNDP xếp hạng, BIDV có thế mạnh và ngày càng có kinh nghiệm trong hợp tác quốc tế. Đến nay BIDV có quan hệ thanh toán, đại lý với hơn 1.000 ngân hàng uy tín trên toàn thế giới… Uy tín của thương hiệu ngân hàng bán buôn của BIDV chính là điều kiện khiến các ĐCTC quốc tế như WB, ADB, JIBIC, IMF, ECB và các chương trình tài trợ song phương luôn tín nhiệm lựa chọn BIDV để uỷ thác giải ngân các dự án lớn của nguồn vốn ODA.
– Nền tảng công nghệ:
BIDV đã triển khai thành công hệ thống ngân hàng cốt lõi (Corebanking). Hệ thống SIBS gồm có 10 phân hệ đáp ứng hầu hết các loại hình giao dịch ngân hàng cốt lõi hiện đại theo mô hình giao dịch một cửa, tập trung tài khoản và thông tin khách hàng, xử lý trực tuyến. Đây là nền tảng cơ sở cho việc triển khai cung cấp nhất quán và đồng bộ, đa dạng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại theo thông lệ quốc tế.
Nhờ có nền tảng công nghệ thông tin này mà BIDV đã triển khai thành công và đáp ứng tương đối đầy đủ nhu cầu của khách hàng cá nhân. Nhiều sản phẩm bán lẻ của BIDV có tiện ích khá cạnh tranh so với thị trường. Bên cạnh đó, BIDV cũng rất quan tâm đến khách hàng là ĐCTC và các doanh nghiệp với phát triển sản phẩm theo định hướng khách hàng và ngành nghề. Từ đó, BIDV đã tận dụng công nghệ thông tin trở thành công cụ quan trọng bậc nhất tạo nên sự khác biệt của BIDV với các NHTM khác trong việc tạo thêm nhiều dịch vụ mới với độ bảo mật và tiện ích cao, tạo nên sự tin cậy, yên tâm và đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng.
– Mạng lưới kênh phân phối
BIDV có mạng lưới giao dịch rộng khắp toàn quốc. Điều này đem lại thế mạnh cho BIDV trong việc tiếp cận với khách hàng. BIDV đã nhận thức rõ các kênh phân phối ngân hàng hiện đại là xu thế đồng thời là thời cơ để khẳng định vị thế, hình ảnh của BIDV trên thị trường. Do đó, BIDV đã tập trung đầu tư và phát triển mạnh mạng lưới phân phối sản phẩm dịch vụ. Đến 31/12/2010 mạng lưới NHTM tăng hơn 2 lần so với năm 2006 với 113 chi nhánh, hơn 500 điểm mạng lưới, hàng nghìn ATM/POS. Với mạng lưới hoạt động rộng khắp đã tạo điều kiện cho BIDV dễ dàng tiếp cận với khách hàng để cung ứng sản phẩm dịch vụ NHBB và NHBL của mình, giúp khách hàng lựa chọn sản phẩm phù hợp, hiệu quả.
– Khả năng khai thác dịch vụ của khách hàng bán buôn, bán lẻ để chiếm thị phần
Với thế mạnh là một ngân hàng bán buôn và tiềm năng phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ, BIDV đã xây dựng và phát triển nền khách hàng là định chế tài chính, tổ chức kinh tế và khách hàng cá nhân khá tốt. Số lượng khách hàng bán buôn và bán lẻ không ngừng tăng lên qua các năm.
BIDV có nền khách hàng là các Tập đoàn, Tổng công ty lớn, có quan hệ khá bền vững với nhiều tập đoàn hàng đầu như Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn dầu khí Quốc gia Việt Nam… và tăng cường phục vụ khách hàng DNNVV. Với hơn 300 loại hình DVNH bán buôn đa dạng, BIDV giữ vị trí dẫn đầu về phục vụ khách hàng doanh nghiệp.
– Năng lực tài chính không ngừng được tăng cường
BIDV có năng lực tài chính lớn so với các NHTM Việt Nam. Đây là một thế mạnh của BIDV trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, khi mà năng lực tài chính của các ngân hàng là vấn đề được quan tâm hàng đầu vì đây là một trong những yếu tố quyết định quy mô phát triển dịch vụ ngân hàng bán buôn, bán lẻ.
– Chất lượng nguồn nhân lực
Nhận thức sâu sắc được yếu tố con người mang tính quyết định trong mọi hoạt động, BIDV đã xây dựng đội ngũ quản lý có tư duy cởi mở, linh hoạt trong điều hành
kinh doanh, đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm, được đào tạo cơ bản. Bên cạnh đó là đội ngũ nhân viên trẻ, năng động, tràn đầy nhiệt huyết.
– Khả năng phát triển DVNH bán buôn, bán lẻ nhờ vào lợi thế về quy mô trong cả hoạt động huy động vốn, tín dụng và dịch vụ ngân hàng
Hình 2.4: Vị thế của BIDV trong ngành ngân hàng
# 1 Tài trợ dự án
# 2 Huy động vốn
# 2 Dư nợ tín dụng
BIDV
# 3 Mạng lưới hoạt động
# 2 Vốn chủ sở hữu
# 3 Tổng tài sản
Nguồn: Bản công bố thông tin Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam [24]
Thành lập năm 1957, BIDV là ngân hàng có lịch sử hoạt động lâu đời, luôn đóng vai trò là ngân hàng tiên phong trên thị trường với nỗ lực cạnh tranh vượt trội. Giai đoạn 2006 – 2010, BIDV giữ vị trí thứ 2 về thị phần tín dụng và huy động vốn với tốc độ tăng trưởng bình quân 23% – 24%/năm, đứng thứ 2 về quy mô vốn chủ sở hữu và có giá trị tổng tài sản đứng thứ 3 toàn ngành ngân hàng năm 2010.
Biểu đồ 2.2: Thị phần HĐV năm 2010 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tiêu Chí Đánh Giá Sự Phát Triển Dịch Vụ Ngân Hàng Bán Buôn Và Bán Lẻ
- Kinh Nghiệm Phát Triển Dịch Vụ Ngân Hàng Bán Buôn Và Bán Lẻ Của Một Số Ngân Hàng Nước Ngoài
- Mô Hình Cơ Cấu Tổ Chức Bộ Máy Hệ Thống Bidv Trước Cổ Phần Hóa
- Hoạt Động Kinh Doanh Của Bidv Giai Đoạn 2006 – 2010
- Thị Phần Huy Động Vốn Dân Cư (Bao Gồm Gtcg) Của Các Tctd
- Tỷ Trọng Dư Nợ Bán Buôn Và Bán Lẻ Tại Bidv Từ Năm 2006-2010
Xem toàn bộ 271 trang tài liệu này.
OTHER 38.0%
BIDV 11.4%
VCB 7.9%
CTG 9.3%
OT HER 35.7%
BIDV 11.1%
VCB 9.3%
CT G
STB 3.7T%CB
2.4%
M BB
2.2%
EIB 2.8%
VBARD 18.5%
ACB 3.9%
ST B 3.5%
T CB 3.6%
MBB 3.0%
EIB 2.6%
VBARD 17.1%
ACB 4.8%
9.3%
Nguồn: Công ty Chứng khoán Vietcombank [71]
Biểu đồ 2.3: Thị phần tài sản năm 2010
Khác 34.0%
BIDV 12.0%
VCB 11.0%
CT G 13.0%
ST B 5.0%
ACB 7.0%
VBARD 17.0%
Nguồn: Bản công bố thông tin của BIDV tháng 12/2011 [24]
3.1.3.2 Điểm yếu:
– Cơ cấu khách hàng và các mảng hoạt động kinh doanh chưa phát triển đa dạng và thật sự đồng đều – quá chú trọng vào bán buôn không chú trọng đến phát triển DVNH bán lẻ: Giữa khối bán buôn và bán lẻ có sự chênh lệch lớn khi khối bán buôn đóng góp vào thu nhập của hệ thống là 70%, trong khi khối bán lẻ chỉ là hơn 20%; Cấu trúc hoạt động chưa được đa dạng hoá theo xu hướng hiện đại, còn phụ thuộc nhiều vào mảng tín dụng và các dịch vụ truyền thống. Ngoài ra, nợ xấu và các tiềm ẩn rủi ro còn khá cao, đặc biệt là tín dụng. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho hoạt động của BIDV còn gặp nhiều rủi ro, chứa đựng nguy cơ thiếu ổn định trong nguồn thu. Nó giải thích tại sao chỉ tiêu khả năng sinh lời của BIDV có phần hạn chế so với trung bình ngành. Hiệu quả kinh doanh còn hạn chế, chỉ số ROA, ROE còn thấp hơn thông lệ, chất lượng tín dụng còn thấp vẫn còn chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế, tỷ trọng cho vay trung dài hạn vẫn còn cao.
– Vốn tự có mặc dù cao hơn các ngân hàng trong nước nhưng nếu so sánh với các ngân hàng trong khu vực thì vẫn còn hạn chế (chỉ bằng cỡ một ngân hàng trung bình trong khu vực).
– Năng lực quản trị rủi ro và quản trị doanh nghiệp chưa cao, chưa đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, ngang tầm với cuộc cạnh tranh quốc tế hiện đại. Công tác quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế, chưa tổ chức triển khai việc quản lý rủi ro đến các nghiệp vụ cụ thể và từng lĩnh vực kinh doanh. Công tác quản trị kinh doanh, quản trị điều hành chưa mang tính chuyên nghiệp, chuyên sâu. Năng lực quản lý là vấn đề cần tăng cường đổi mới. Công tác quản trị nguồn nhân lực, tuyển dụng, bổ nhiệm, tổ