Tình Hình Kinh Tế - Xã Hội Của Huyện Cư M’Gar Hiện Nay

sức hấp dẫn khó cưỡng với du khách. Theo thống kê, trên địa bàn huyện hiện có 3 di tích danh lam thắng cảnh, trong đó có 2 di tích đã được xếp hạng. Nhắc đến tiềm năng du lịch sinh thái ở Cư M’gar, người ta thường nghĩ ngay đến thắng cảnh đồi Cư H’lâm (nằm trên tỉnh lộ 8, thuộc thị trấn Ea Pôk, cách TP. Buôn Ma Thuột 12 km), nơi đây có tổng diện tích mặt bằng là 18,486 ha, trong đó rừng nguyên sinh chiếm đến 15,65 ha. Đặc biệt, tại khu đồi này vẫn lưu truyền truyền thuyết hấp dẫn tồn tại từ đời này sang đời khác về chuyện tình giữa nàng H’Lâm và chàng trai Y Nhai. Tháng 9-2009, đồi Cư H’lâm được công nhận là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh. Không dừng lại ở đó, với nhiều người dân địa phương, lâu nay thác Drai Yông (theo tiếng Êđê có nghĩa là thác Đòn Dông, nằm trên địa phận xã Ea M’Nang) cách trung tâm TP. Buôn Ma Thuột khoảng 22 km về hướng Tây Bắc) cũng là điểm du lịch hấp dẫn. Khu thác này nằm trên dòng suối Ea Tul chảy từ Đông sang Tây và đổ vào sông Sêrêpôk huyền thoại, còn giữ nhiều nét hoang sơ và hùng vĩ. Nơi thượng nguồn thác có chiều rộng khoảng 80m, đổ xuống độ cao 12m; dưới chân thác là một hồ nước rộng khoảng 2.000m2, có nhiều cồn đá, cây và hang động lõm sâu vào trong vách đá, phía ngoài có bờ cỏ tạo ra một khung cảnh rất thơ mộng. Đến Cư M’gar sẽ khá tiếc nếu ai đó bỏ qua cơ hội về tận nơi và chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ của thác Drai Dlông (theo tiếng Êđê có nghĩa là thác cao, thuộc địa phận của xã Ea M’droh và Quảng Hiệp). Tháng 1-2004, thác Drai Dlông cũng được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích cấp quốc gia. Ngoài ra, huyện Cư M’gar còn có các di tích khác như dấu chân của Đam San trên tảng đá tại bến nước buôn Sah, xã Ea Tul, huyền thoại đồi núi lửa Cư M’gar (thị trấn Quảng Phú), bến nước ở xã Cư Dliê M’Nông… khá đẹp và hấp dẫn. Đáng chú ý, ngoài những ưu đãi về tự nhiên, địa phương này hiện vẫn còn duy trì và bảo tồn nhiều nét đẹp văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc bản địa. Nhiều lễ hội, lễ cúng như mừng lúa mới, lễ thổi tai, cúng sức khỏe, bến nước… vẫn còn phục dựng và duy trì đều đặn hằng năm. Bên cạnh đó, làng nghề dệt thổ cẩm ở xã Cư M’gar, Ea Tul, cùng việc khám phá, thưởng thức nét độc đáo về ẩm thực của đồng bào Êđê, Tày, Nùng… cũng là lợi thế để đẩy mạnh du lịch phát triển, thu hút du khách. Theo nhiều người, với sự đa dạng và hấp dẫn kể trên, phải mất nhiều ngày, du khách mới có thể thăm hết cảnh đẹp và thưởng thức văn hóa đặc sắc của Cư M’gar [23].

Huyện Cư M’gar có có 17 đơn vị hành chính trực thuộc 15 xã và 2 thị trấn. Toàn huyện có 174 thôn, buôn và tổ dân phố, trong đó có 71 buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ.

Thị trấn: Quảng Phú, Ea Pốk.

Các xã: Quảng Tiến, Ea M’Nang, Ea Kpam, Cư Suê, Cuôr Dăng, Ea DRơng, Ea Tul, Ea Tar, Ea H’Đing, Ea Kiết, Ea M’Dróh, Quảng Hiệp, Cư M’gar, Cư DliêM’Nông, Ea Kuêh.

Về dân cư: Toàn huyện Cư M'gar có dân số là 171.363, có số hộ là 38.815 hộ, mật độ dân số là 208 người/km2. Trong đó dân tộc kinh là chiếm đa số với tỷ lệ là 53.9% còn lại tỷ lệ 46.1% là đồng bào dân tộc thiểu số. Có 25 dân tộc anh em cùng sinh sống: Kinh; Ê Đê; Nùng; Tày; Thái; Dao; Mông; Mường...với nhiều nền văn hóa phong phú điển hình như: lễ cúng bến nước, cúng sức khỏe, cúng buôn, lễ cầu

mưa, lễ bỏ mả, lễ lên nhà mới, lễ cúng lúa mới, ăn cơm mới, lễ hội mừng chiến thắng, lễ hội Lồng tồng…Trên địa bàn huyện có nhiều loại hình tôn giáo nhưng phổ biến nhất là đạo Phật, Thiên Chúa giáo, Tin Lành. Tuy huyện có nhiều thành phần dân tộc cũng như tín ngưỡng khác nhau nhưng toàn thể nhân dân huyện luôn nêu cao tinh thần đoàn kết chống lại mọi âm mưa dụ dỗ lôi kéo, chung sức xây dựng huyện Cư M'gar vững mạnh đoàn kết và phát triển.

2.1.3. Tình hình kinh tế - xã hội của huyện Cư M’gar hiện nay

Thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII Đảng bộ huyện, 5 năm qua (2015 – 2020) bên cạnh những thuận lợi và khó khăn. Huyện Cư M'gar phải đối mặt với nhiều khó khăn do tác động của suy giảm kinh tế; huy động các nguồn lực để đầu tư phát triển gặp nhiều khó khăn; thời tiết diễn biến bất thường; tình hình an ninh chính trị còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Song, Đảng bộ, khối cơ quan Nhà nước tại địa phương và nhân dân huyện nhà đã nỗ lực vượt qua khó khăn thách thức, chung sức phấn đấu thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội lần thứ VII đề ra và đã đạt được những thành tựu quan trọng trong nhiều lĩnh vực như: Kinh tế, văn hóa xã hội và an ninh quốc phòng. Với những thành công và hạn chế của huyện 5 năm qua, hiện nay, toàn Đảng toàn dân huyện Cư M’gar tiếp tục củng cố, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, phát huy sức mạnh đại đoàn kết của các dân tộc, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, xây dựng huyện Cư M’gar đến năm 2020 cơ bản đạt chuẩn nông thôn mới

2.1.2.1 Kinh tế

Trong những năm qua huyện đã không ngừng nỗ lực, phấn đấu hoàn thành mục tiêu nhiệm vụ được đề ra, với tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân giai đoạn 2015 -2029 đạt 7,93%/năm. Trong đó, giá trị nông – lâm – ngư nghiệp tăng 1,18%, công nghiệp – xây dựng tăng 13,73%; thương mại - dịch vụ tăng 16,66%. Tổng giá trị sản xuất năm 2020 (giá so sánh 1994) đạt 4235 tỷ đồng, tăng 1,46 lần so với năm 2015. Thu nhập bình quân đầu người ở huyện không ngừng được cải thiện, cho đến năm 2015 đạt 29 triệu đồng, tăng 1,75 lần so với năm 2020.

Với kinh tế chủ yếu là nông nghiệp nên tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn với thị trường. Các loại cây công nghiệp lâu năm có giá trị kinh tế cao như cà phê, cao su, hồ tiêu vẫn được xác định là cây trồng chủ lực của huyện. Đến nay, toàn huyện có 50.537 ha cây công nghiệp lâu năm, trong đó cà phê 38.126 ha (tăng 18 ha so với 2010), cao su 8757 ha (tăng 698 ha), tiêu 1434 ha (tăng 875 ha), điều 2220 ha (giảm 2426 ha). Chương trình phát triển cà phê bền vững trong những năm qua đạt nhiều kết quả tốt. Chương trình phát triển cây cao su được quan tâm triển khai đúng quy hoạch. Sản xuất lương thực ổn định và phát triển, tổng sản lượng lương thực năm 2020 ước đạt 90.323 tấn, cao hơn năm 2015là 1393 tấn, đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. Với các mô hình thâm canh, xen canh hồ tiêu, cây ăn quả trong vườn cà phê được nhân rộng. Giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích từ 57 triệu đồng/ha/năm 2015 lên 73 triệu đồng/1 ha/năm 2020. Từng bước phát triển mô hình chăn nuôi trang trại và theo hướng công nghiệp; toàn huyện có 19 trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm với tổng thu nhập trên 1 tỷ đồng/1 năm/1 trang trại. Đàn gia súc, gia cầm ổn định và có bước tăng trưởng.

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - xây dựng phát triển khá, giá trị sản xuất tăng bình quân 13,73%/năm. Toàn huyện có trên 700 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với tổng giá trị sản xuất năm 2020 ước đạt 780 tỷ đồng, tăng 370 tỷ đồng so với năm 2015. Nhóm sản phẩm duy trì được mức tăng mạnh, gồm: máy chế biến nông sản, rơ moóc xe công nông, ống tưới, bơm tưới, đá cây. Một số cơ sở sản xuất cà phê bột đã hình thành, từng bước xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm trên thị trường. Các cơ sở sản xuất phân vi sinh, ống tưới, nước đóng chai … đáp ứng được nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trong và ngoài huyện. Cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp thị trấn Quảng Phú đã được quy hoạch chi tiết và đang được xúc tiến kêu gọi đầu tư.

Thương mại - dịch vụ phát triển đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu sản xuất, sinh hoạt, tiêu dùng của nhân dân. Tổng mức bán lẻ hàng hóa hàng năm tăng mạnh, giá trị năm 2020 đạt 3670 tỷ đồng, tăng 2075 tỷ đồng so với năm 2015. Đã hoàn thành nâng cấp, đưa vào sử dụng Chợ B Quảng Phú và nâng cấp, xây dựng thêm 3 chợ ở các xă, thị trấn. Số cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc lĩnh vực thương mại, dịch vụ từ khu vực trung tâm huyện đến các xã, thị trấn tiếp tục phát triển, từ 580 hộ năm 2015 tăng lên 2102 hộ năm 2020. Công tác quản lý thị trường bình ổn giá cả được thực hiện tốt; giá cả không có sự chênh lệch lớn so với toàn tỉnh

Huyện luôn quan tâm đến các chính sách liên quan đến đồng bào dân tộc nên đã đưa ra chương trình phát triển kinh tế - xã hội buôn đồng bào dân tộc thiểu số theo Nghị quyết 04 –NQ/TU của Tỉnh uỷ được quan tâm triển khai và phát huy hiệu quả. Giai đoạn 2015 - 2020, có 10 buôn được đầu tư với tổng kinh phí 10 tỷ đồng. Trong đó, mỗi buôn, nguồn vốn của tỉnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng 500 triệu và nguồn kinh phí sự nghiệp của huyện đầu tư phát triển kinh tế 500 triệu. Ngoài ra, huyện đã chủ động lồng ghép các chương trình, dự án đầu tư vào các buôn đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh công tác giảm nghèo và thay đổi diện mạo nông thôn [23].

2.1.2.2 Văn hóa, xã hội

Sự nghiệp giáo dục đào tạo tiếp tục phát triển, mạng lưới giáo dục được củng cố, mở rộng. Toàn huyện có 89 trường và 1 Trung tâm giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên; huyện đạt chuẩn phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi, đồng thời tiếp tục giữ vững đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở. Các Trung tâm học tập cộng đồng ở các xã, thị trấn tổ chức hoạt động khá hiệu quả. Chất lượng giáo dục ở học sinh vùng đồng bào DTTS đã được nâng lên, chương trình dạy tiếng Ê đê được tổ chức ở 17 trường tiểu học với 2279 em. Thực hiện đầy đủ, kịp thời chế độ chính sách đối với học sinh DTTS. Chủ trương xã hội hóa giáo dục được nhân dân hưởng ứng nhiệt tình. Phong trào khuyến học, khuyến tài được nhân rộng đến thôn, buôn, tổ dân phố. Cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư xây dựng, đáp ứng được yêu cầu dạy và học.

Chương trình phát triển nguồn nhân lực đạt được những kết quả quan trọng. Đội ngũ cán bộ, công chức được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, năng lực công tác. Công nhân của các công ty, nông, lâm trường hầu hết đã qua đào tạo nghề. Trung tâm dạy nghề huyện tổ chức được 25 lớp nghề và 09 lớp tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho 1400 người, thường xuyên tư vấn,

giới thiệu học nghề cho thanh niên. Qua thực hiện Chương trình phát triển nguồn nhân lực đã góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 46%, tăng 4,9% so với năm 2010 và giải quyết việc làm cho khoảng 14.500 lao động, đạt chỉ tiêu nghị quyết đại hội đề ra.

Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều tiến bộ. Mạng lưới y tế được củng cố đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân; công tác phòng, chống dịch bệnh được quan tâm, đã chủ động ngăn ngừa, dập tắt kịp thời các loại dịch, bệnh nguy hiểm. Hiện nay 100% xã, thị trấn có bác sỹ, 100% thôn, buôn, tổ dân phố có cán bộ y tế, đã có 15/17 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế giai đoạn 2011 - 2020. Các chương trình y tế quốc gia được triển khai đồng bộ và có hiệu quả, xã hội hóa y tế được đẩy mạnh; các dịch vụ y tế, y học cổ truyền được chú trọng phát triển, góp phần vào việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.

Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, giải quyết kịp thời, đầy đủ chế độ chính sách đối với thương, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có công và các đối tượng bảo trợ xã hội. Chương trình giảm nghèo được triển khai đồng bộ, bằng các giải pháp tích cực như giải quyết đất sản xuất, đất ở, tín dụng, khuyến nông, đầu tư phát triển kinh tế buôn đồng bào DTTS tại chỗ đã giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 3,03%/năm, đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. Hiện nay, số hộ nghèo còn 3138 hộ, chiếm 8,39 %.

Các chương trình 135, 102, 167, 1592 của Chính phủ được triển khai kịp thời, có hiệu quả; hệ thống đường giao thông, phòng học, nhà sinh hoạt cộng đồng, điện sinh hoạt ở các xã khó khăn tiếp tục được hoàn thiện, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn. Nhiều hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số được giải quyết vốn sản xuất, hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở đã vượt qua khó khăn, vươn lên thoát nghèo. Phong trào “đền ơn, đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn” được đẩy mạnh; đời sống vật chất, tinh thần của những người có công ngày càng được cải thiện. Công tác phòng, chống bạo lực gia đình và thực hiện bình đẳng giới được quan tâm thực hiện, nâng cao được nhận thức của nhân dân và đạt nhiều kết quả tích cực.

Các chương trình nhân đạo từ thiện như ủng hộ vùng bị thiên tai, xóa nhà dột nát, tạm bợ; ngày vì người nghèo, “Mỗi tổ chức, cá nhân gắn với một địa chỉ nhân đạo” được các cấp, các ngành và nhân dân hưởng ứng nhiệt tình; 5 năm qua huy động được trên 20 tỷ đồng, giúp đỡ, hỗ trợ cho hàng ngàn lượt đối tượng, góp phần tích cực trong công tác giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội của huyện.

Phong trào văn hoá, văn nghệ phát triển sâu rộng và sôi nổi, đáp ứng nhu cầu giải trí, hưởng thụ và sáng tạo văn hoá của nhân dân. Cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” đã đi vào chiều sâu gắn với giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc trên địa bàn. Đến nay có 112/189 thôn, buôn, tổ dân phố và 128 cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hoá; 14/17 xã, thị trấn đăng ký xây dựng “xã văn hoá nông thôn mới”, trong đó có 01 xã đạt chuẩn; huyện làm lễ đăng ký xây dựng huyện văn hoá từ năm 2009 và đã đạt được một số chỉ tiêu quan trọng. Năm 2014, có 84,6% hộ gia đình đạt chuẩn văn hoá, đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và

lễ hội có nhiều chuyển biến tích cực, giảm được phiền hà, tốn kém, được nhân dân đồng thuận, ủng hộ [23].

Các thiết chế văn hóa tiếp tục được quan tâm đầu tư. Tại trung tâm huyện đã xây dựng được nhà thi đấu đa năng, hoa viên, quảng trường, thư viện, nhà truyền thống; các xã thị trấn hầu hết có sân bóng đá, sân bóng chuyền, tạo môi trường để thanh, thiếu niên và các tầng lớp nhân dân tham gia tập thể dục – thể thao, vui chơi giải trí.

Quan tâm triển khai kịp thời các chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Các chương trình phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc được triển khai thực hiện đồng bộ, đã làm thay đổi diện mạo nông thôn, khuyến khích đồng bào tăng gia sản xuất, đẩy mạnh công tác giảm nghèo.

Thực hiện nhất quán chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; xem xét, giải quyết các nhu cầu sinh hoạt chính đáng của tôn giáo. Xử lý kiên quyết các hoạt động tôn giáo trái pháp luật, mê tín dị đoan, lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

2.1.2.3. An ninh, quốc phòng

Về công tác quân sự - quốc phòng thì huyện thường xuyên quán triệt, nắm vững đường lối quân sự - quốc phòng của Đảng, Nhà nước; thực hiện tốt công tác giáo dục quốc phòng, tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới. Thực hiện nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, tăng cường tuần tra, kiểm soát, bảo vệ an toàn các sự kiện văn hoá chính trị được tổ chức trên địa bàn. Thường xuyên rà soát, bổ sung các phương án phòng thủ, kế hoạch B của huyện phù hợp với tình hình; tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ cấp huyện và các xã, thị trấn đúng kế hoạch, an toàn và có chất lượng. Hằng năm, thực hiện tốt công tác huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị cho lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt tỷ lệ quy định, đảng viên trong lực lượng đạt 16,4% tăng 4,7% so với năm 2010. Hằng năm, hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân, bảo đảm chất lượng chính trị và tỷ lệ đảng viên.

An ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Thường xuyên phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, không để xảy ra biểu tình, bạo loạn. Đã bóc gỡ vô hiệu hoá số đối tượng hoạt động FULRO; thường xuyên giáo dục, đấu tranh số đối tượng cầm đầu các tà đạo, không để tái hoạt động. Tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân và thực hiện có hiệu quả các chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy đảm bảo an toàn giao thông được tích cực triển khai, góp phần ổn định an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn.

Công tác nội chính: Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được triển khai đến tận thôn, buôn, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân. Đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết 49 – NQ/TW của Bộ chính trị, các cơ quan tư pháp đã tập trung kiện toàn tổ chức, bộ máy; chăm lo đào

tạo, chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, từng bước xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

Công tác thanh tra, tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân được quan tâm, góp phần ổn định an ninh trật tự trên địa bàn. Công tác tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo được thực hiện nghiêm túc, đúng luật; đã giải quyết dứt điểm các vụ khiếu kiện đông người, hạn chế được những vụ khiếu kiện vượt cấp. Trong nhiệm kỳ, đã tiếp 382 lượt công dân, tiếp nhận 637 đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản ánh. Đã xử lý, giải quyết 624 đơn, đạt 97,9%.

2.2.Khái quát về cán bộ, công chức viên chức cấp huyện của huyện Cư M’gar năm 2020

2.2.1. Về số lượng:

- Tổng số cán bộ, công chức, viên chức cấp huyện: 177 người, trong đó nữ 56, chiếm 32%, Dân tộc thiểu số 23, chiếm 13%. Trong đó Cán bộ 28 người (nữ 7, chiếm 25%, dân tộc thiểu số 7, chiếm 20%); Công chức 121 người, trong đó nữ 44 người, chiếm 36%, dân tộc thiểu số 13 người, chiếm 10,7%; Viên chức 28 người, trong đó nữ 9, chiếm 32%, Dân tộc thiểu số 3, chiếm 10,7%.

2.2.2. Về chất lượng:

- Trình độ chuyên môn: Cao học 18 người, chiếm 10,16%; Đại học 151 người, chiếm 85,3%, Cao đẳng 02 người, chiếm 1,12%; Trung cấp có 6 người, chiếm 3,4%.

- Trình độ lý luận chính trị: Cao cấp 51 người, chiếm 28,81%; Trung cấp có 72 người, chiếm 40,67%.

Có thể thấy, với những điều kiện thuận lợi về địa hình, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh như đã nêu ở trên đặc biệt là sự quan tâm chỉ đạo của Cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương về các nhiệm vụ chính trị của huyện là tiền đề, điều kiện quan trọng xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung trên địa bàn huyện trong thời gian tới.

Cán bộ, công chức, viên chức cấp huyện có phẩm chất chính trị, kiên định mục tiêu lý tưởng, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới; thường xuyên trau dồi phẩm chất đạo đức, có lối sống lành mạnh, gắn bó mật thiết với Nhân dân. Trình độ chuyên môn ngày càng được nâng cao, phù hợp với vị trí công tác và yêu cầu công việc; công tác đào tạo, bồi dưỡng được chú trọng, gắn với nhu cầu bố trí, sử dụng đã góp phần chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Tuy nhiên, qua đánh giá về những tồn tại, hạn chế cán bộ, công chức cấp huyện có năng lực không đồng đều, cơ cấu chuyên môn chưa hợp lý, thiếu ở một số vị trí cần có chuyên môn sâu như lĩnh vực quy hoạch, kiến trúc, tài chính, quản lý nông nghiệp, đất đai, công nghệ thông tin...

Công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức vẫn còn một số hạn chế nhất định, công tác quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo còn bị động, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, tiêu chuẩn vị trí việc làm chưa phù hợp....dẫn đến một số cơ quan, đơn vị thiếu người đáp ứng tiêu chuẩn để bố trí, sử dụng theo quy định. Do đó cần có những

giải pháp phù hợp, thiết thực để nâng cao năng lực cán bộ, công chức, viên chức, trên địa bàn huyện nói chung và nâng cao năng lực cán bộ công chức nữ các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện nói riêng.

2.3.Khái quát về công chức nữ và năng lực công chức nữ các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Cư M’gar

2.3.1. Về số lượng

Bảng 2.1. Số lượng công chức hành chính trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk


Tên đơn vị

Năm2017

Nữ

Năm2020

Nữ

Tổng số

84

26

91

27

Văn phòng HĐND, UBND

12

6

16

7

Phòng Nội vụ

7

1

7

1

Phòng Tư pháp

4

1

4

1

Phòng Tài chính – Kế hoạch

8

3

9

3

Phòng Tài nguyên – Môi trường

6

1

6

1

Phòng LĐ-TB XH

7

2

8

2

Phòng Văn hóa – Thông tin

7

2

7

2

Phòng Giáo dục và đào tạo

6

2

6

2

Phòng Y tế

4

2

4

2

Thanh tra huyện

6

2

6

2

Phòng NN&PTNT

6

1

7

1

Phòng Kinh tế hạ tầng

7

1

7

1

Phòng Dân tộc

4

2

4

2

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.

Năng lực công chức nữ trong các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Cư M’gar - 6

(Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk)

Qua số liệu Bảng 2.1 thống kê nói trên, có thể thấy số lượng công chức và công chức nữ trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện Cư M’gar trong giai đoạn 2017 - 2020 tăng không đáng kể, được giữ ổn định, qua số liệu công chức có mặt đến cuối năm 2020 là 91 người, chỉ tăng 07 người so với cuối năm 2017.

2.3.2. Về cơ cấu

- Cơ cấu theo giới tính, dân tộc, tôn giáo: Cơ cấu về giới tính, dân tộc, tôn giáo của công chức trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện Cư M’gar được thể hiện quả bảng số liệu sau:

Bảng 2.2 Số lượng, tỷ lệ công chức theo giới tính, dân tộc, tôn giáo



Năm


Tổng số


Nữ


Tỷ lệ


Dân tộc thiểu số


Tỷ lệ


Tôn giáo


Tỷ lệ

2017

84

26

30,95%

8

9,5%

2

2,3%

2020

91

27

29%

7

7%

2

2%

(Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk)


Qua số liệu Bảng 2.2 cho thấy, những năm qua cơ cấu về giới tính, dân tộc, tôn giáo trong đội ngũ công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện không có biến động nhiều, tỷ lệ cán bộ nữ chiếm khoảng 30% số lượng công chức trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện.

- Cơ cấu theo độ tuổi: Cơ cấu về độ tuổi công chức trong các cơ quan chuyên môn được thể hiện quan bảng số liệu sau:

Bảng 2.3 Số lượng công chức nữ theo độ tuổi



Năm


Tổng số

Độ tuổi


≤ 30


31-35


36-40


41-45


46-50


Trên 50

2017

26

4

6

5

3

4

4

2020

27

1

7

5

5

6

3

(Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk)

Qua bảng số liệu trên cho thấy độ tuổi công chức nữ trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện được phân bổ tương đối đồng đều ở các độ tuổi, điều đó cho thấy có sự kế thừa trong thực hiện công tác cán bộ của huyện.

Xem tất cả 88 trang.

Ngày đăng: 09/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí