Xây dựng cơ chế quản lý hoạt động định giá chuyển giao của các TNC tại Việt Nam - 12

nghĩa khi mà bên phía Việt Nam (với tư cách là bên góp vốn) không có trình độ quản lý kinh doanh.

Để giải quyết vấn đề này, đối với những liên doanh mà phía đối tác là các doanh nghiệp nhà nước thì chúng ta cần giáo dục, nâng cao trình độ quản lý kinh doanh của những người có chức trách của phía Việt Nam trong liên doanh, mà còn phải gắn trách nhiệm quản lý vốn của nhà nước tại doanh nghiệp cho từng cá nhân một cách rõ ràng, nâng cao ý thức của họ đấu tranh bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp mình. Tuy nhiên, điều này dường như rất khó thực hiện bởi không phải cá nhân, doanh nghiệp nào cũng đặt lợi ích chung lên hàng đầu.

Nhưng một khi chúng ta có một đội ngũ nhân viên có trình độ quản lý và tham gia tích cực vào việc điều hành kinh doanh thì một giải pháp hữu hiệu cần được song song thực hiện từ phía chính phủ, trong trường hợp này là Bộ kế hoạch đầu tư, đó là nên hạn chế những cơ chế góp vốn bằng quyền sử dụng đất và bất động sản. Dần dần mô hình hóa các liên doanh mà trong đó tiếng nói của phía Việt Nam cần được khẳng định, lúc đó tất yếu lợi ích của quốc gia sẽ được đặt lên hàng đầu trước những âm mưu và thủ đoạn của phía đối tác nước ngoài (nếu có) làm tổn lại đến lợi ích đó.

2.2. Tăng cường công tác giám định, quản lý việc nhập khẩu các máy móc trang thiết bị trong quá trình đầu tư của các TNC

Thực tế cho thấy công tác giám định ở Việt Nam còn ít về số lượng và kém về chuyên môn. Nếu tình trạng này không được cải thiện thì chúng ta sẽ phải đối đầu với hai nguy cơ, đó là nguy cơ bị các nhà đầu tư nước ngoài qua mặt khi tiến hành kê khai giá của các thiết bị máy móc này cao hơn so với giá

trị thực của nó. Và quan trọng hơn nữa là nguy cơ Việt Nam có thể sẽ trở thành một bãi rác công nghệ.

Làm tốt công tác giám định sẽ làm tăng hiệu quả sản xuất do tiết kiệm nhiên liệu, giảm khấu hao vô lý vì sử dụng thiết bị quá cũ. Đã đến lúc chúng ta không thể để mặc các công ty giám định hoạt động mà không có sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước. Điều cần thiết hiện nay là phải nghiên cứu, xây dựng và sớm ban hành những văn bản pháp quy về chuẩn mực, phương pháp cho công tác giám định. Các công ty, tổ chức giám định phải đảm bảo có thể được hạch toán vào chi phí nhằm khuyến khích và tăng cường vai trò giám định của doanh nghiệp.

Cùng với việc tăng cường hiệu quả công tác giám định, cần phải có biện pháp nhằm nâng cao vai trò của các tổ chức này. Các loại tài sản nào không có loại tương tự trên thị trường hoặc những thiết bị đã qua sử dụng thì nhất thiết phải có ý kiến của cơ quan giám định khi xác định giá trị liên doanh hoặc giá trị tài sản ban đầu. Việc kiểm định cũng cần thiết thực hiện đối với những loại sản phẩm bán cho các doanh nghiệp liên kết mà không có sản phẩm so sánh trên thị trường.

3. Xây dựng một cơ chế kiểm tra và giám sát tài chính đối với hoạt động của các TNC tại Việt Nam

3.1. Kiểm tra giám sát tài chính đầu vào

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.


3.1.1. Kiểm tra giám sát việc đánh giá tài sản

Xây dựng cơ chế quản lý hoạt động định giá chuyển giao của các TNC tại Việt Nam - 12


Việc đánh giá tài sản cần được xem xét ở cả hai trường hợp: doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, trên cả hai giác độ tài sản cố định và tài sản lưu động.

Khi tính khấu hao tài sản cố định, cần lưu ý hai vấn đề:

- Giá trị TSCĐ tính khấu hao phải được xây dựng trên giá trị thực của TSCĐ và giá trị này phải được xác định một cách chính xác.

- Không nên cho phép các doanh nghiệp FDI áp dụng quá rộng rãi phương pháp khấu hao nhanh vì trước mắt và lâu dài, các doanh nghiệp này thông qua con đường liên tục hiện đại hóa thiết bị sẽ làm gia tăng khoản chi phí khấu hao, giảm thiểu khoản thuế lợi tức phải nộp, tạo ra lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp trong nước.

Do đó, nên chăng chỉ cho áp dụng khấu hao nhanh đối với một số ngành nghề mà mức độ hao mòn vô hình khá lớn như: công nghệ thông tin, vật liệu kỹ thuật cao,

Đối với tài sản lưu động, cụ thể là những nguyên, vật liệu, việc xác định giá trị cần phân biệt giữa hai nguồn cung ứng:

- Những nguyên vật liệu mua trong nước: căn cứ xác định giá trị là những hóa đơn mua hàng cộng thêm các khoản chi phí vận chuyển, bảo quản, hao hụt trong định mức (xác định theo tỷ lệ % nhất định trên giá gốc tùy theo loại vật liệu)

- Những nguyên vật liệu nhập khẩu từ quốc gia của công ty mẹ (hoặc mua ngoài nước): căn cứ xác định giá trị ngoài hóa đơn mua hàng còn phải kiểm tra lại giá gốc hàng mua có so sánh với giá trị vật tư tương ứng trong nước. Nếu có trường hợp loại vật tư đó chưa có mặt hàng tương tự trong nước thì phải có ý kiến của cơ quan giám định.

3.1.2. Kiểm tra và giám sát việc quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành


Bên cạnh các chi phí về nguyên vật liệu, khấu hao TSCĐ, các chi phí quản lý chung cần thiết phải được giám sát chặt chẽ.

Đối với các khoản chi phí trả lương cho nhân viên quản lý, khoản thu thuế thu nhập cũng góp phần điều tiết bớt các khoản nâng giá bằng biện pháp tăng

lương cho nhân viên người nước ngoài. Đối với các khoản chi phí quảng cáo, tiếp thị, Bộ tài chính đã quy định cụ thể các khoản chi phí này không được vượt quá 10% tổng chi phí hợp lệ để xác định thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên, các doanh nghiệp FDI lại cho rằng vấn đề này gây nên những cản trở không nhỏ đối với hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư và đi ngược với thông lệ quốc tế. Trước mắt, Bộ tài chính và cơ quan thuế cần giữ vững tỷ lệ này và kiên quyết không cho phép đưa vào các khoản chi phí quá lớn và bất hợp lý vào chi phí sản xuất. Trong những năm tiếp theo, Bộ tài chính cần quy định một tỷ lệ khống chế riêng biệt và hợp lý đối với các doanh nghiệp FDI. Tỷ lệ này không thể xây dựng trên cơ sở các doanh nghiệp nội địa Việt Nam mà phải xem xét tại các công ty mẹ ở các quốc gia khác, căn cứ vào tỷ trọng của chi phí tiếp thị và quảng cáo thống kê cho nhiều ngành tính bình quân trong một giai đoạn nhất định.

3.2. Kiểm tra giám sát tài chính đầu ra

Kiểm tra việc xác định doanh thu chủ yếu căn cứ vào việc xác định tính hợp lý của giá cả hàng hóa tiêu thụ.

Việc kê khai giá hàng bán ra cho công tỵ mẹ hoặc một chi nhánh khác trong cùng một TNC thấp hơn giá trị thực của hàng hóa phổ biến nhất ở các doanh nghiệp 100% vốn FDI. Việc kiểm soát đầu ra có thể thực hiện thông qua một số biện pháp:

- Áp dụng phương pháp so sánh về giá thị trường của những sản phẩm hàng hóa tương đương trên thị trường thế giới. Phương pháp này đòi hỏi phải nắm được những thông tin về sản phẩm và giá cả trên thị trường quốc tế.

- Ký kết những Thỏa thuận định giá trước (APA) giữa các Công ty với chính phủ.

Tóm lại, xây dựng một cơ chế kiểm tra giám sát tài chính đối với hoạt động của các doanh nghiệp FDI là một quy trình khá phức tạp. Những yếu tố

thuộc quy trình này, nếu được giám sát chặt chẽ sẽ hạn chế được việc nâng giá sản phẩm đầu vào hạ giảm giá sản phẩm đầu ra, phản ánh không đúng tình hình kinh doanh của các TNC tại Việt Nam.

4. Tăng cường công tác điều tra ở các doanh nghiệp có nghi vấn về chuyển giá

Theo thừa nhận của Bộ tài chính và Cơ quan thuế của Việt Nam, đã có nhiều doanh nghiệp FDI có những hành vi trốn lậu thuế thông qua chuyển giá. Nhưng cho đến nay thì các cơ quan chức năng vẫn chưa thể nào phát hiện và tiến hành điều tra một vụ việc nào cụ thể. Việc ban hành các phương pháp xác định giá thị trường, cho đến nay vẫn là câu chuyện hướng đến tương lai, tức là đưa hoạt động của các doanh nghiệp FDI vào khuôn khổ và đương nhiên, đó là việc làm hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, thực tế mức độ mà các TNC áp dụng thông tư như thế nào trong thời gian vừa qua thì dường như cơ chế quản lý, giám sát của Bộ tài chính vẫn chưa phát huy hiệu quả. Liệu chúng ta có phải cần đến một thời gian là 5 năm để kết luận một vụ điều tra một công ty có thực hiện hành vi định giá chuyển giao sai nguyên tắc ở Việt Nam hay không? Rõ ràng, trong một bối cảnh mới khi đã có những quy định khung về định giá chuyển giao, thì công tác thực hiện những quy định đó cần phải được đẩy mạnh và phát huy tối đa hiệu quả.

4.1. Ban hành quy định về dấu hiệu doanh nghiệp trong diện nghi vấn có hành vi chuyển giá

Thực tế đây là một công tác vô cùng khó khăn và phức tạp nhưng có ý nghĩa quan trọng. Theo đó, một khi những dấu hiệu này được nêu ra thì các doanh nghiệp FDI, nếu rơi vào danh sách này sẽ tự điều chỉnh, nếu không sẽ bị cơ quan thuế điều tra về hoạt động của mình.

Một số dấu hiệu cho thấy có thể tồn tại hiện tượng chuyển giá trong một doanh nghiệp FDI cần phải điều chỉnh theo giá thị trường là:

- Các doanh nghiệp bị lỗ trong hai năm liên tiếp trở lên, sau giai đoạn mới thành lập.

- Có các nghiệp vụ chuyển nhượng từ các doanh nghiệp liên kết ở quốc gia có thuế suất thấp.

- Các doanh nghiệp có tình hình lãi và lỗ luân phiên hoặc tình hình lãi và lỗ phát sinh không bình thường.

- Các doanh nghiệp mà tỷ suất lợi nhuận nhỏ hơn nhiều (chênh lệch khá lớn) so với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành.

- Các doanh nghiệp mà tỷ suất lợi nhuận nhỏ hơn nhiều so với tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp trong tập đoàn.

Tuy nhiên, khi một trong những dấu hiệu trên xuất hiện tại một doanh nghiệp kèm theo các trường hợp sau:

- Thiết bị sản xuất của doanh nghiệp đó được mua từ công ty mẹ hoặc những doanh nghiệp liên kết trong cùng một tập đoàn.

- Sản phẩm của doanh nghiệp được bán cho công ty mẹ hoặc những doanh nghiệp liên kết khác.

Nếu có những dấu hiệu trên thì khả năng xảy ra tình trạng các TNC đang cố tình thực hiện chính sách định giá chuyển giao sai nguyên tắc là rất cao. Vì vậy, cơ quan thuế cần nắm danh sách những doanh nghiệp nằm trong diện nghi vấn này và tiến hành điều tra để truy thu thuế.

4.2. Thu thập và kiểm soát thông tin để chứng minh những hành vi nghi vấn về chuyển giá

4.2.1. Thực hiện phỏng vấn và thu thập thông tin

Để chứng minh được một TNC có thực hiện chính sách định giá chuyển giao trái quy định hay không thì việc tập hợp được những thông tin xác thực từ những nguồn khác nhau là rất cần thiết. Muốn vậy, cơ quan thuế phải thực hiện những cuộc phỏng vấn đối với chính những nhân viên trong các công ty

để có được những thông tin liên quan đến nghiệp vụ chuyển giao. Phỏng vấn ngay tại chỗ có ưu điểm hơn những hình thức phiếu câu hỏi hay qua điện thoại. Trong quá trình phỏng vấn, thông thường phải bao quát các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất và phân phối như: các chức năng sản xuất (chức năng sản xuất, quy trình sản xuất, mua sắm nguyên vật liệu, sự thỏa thuận của người cung cấp,..); chức năng marketing, chức năng phân phối, dịch vụ sau bán hàng,... Cùng với việc phỏng vấn, cơ quan thuế cần thiết phải kiểm tra các tài liệu và thông tin khác như: sơ đồ tổ chức, các báo cáo về chính sách định giá trong nội bộ công ty hiện có, các thỏa thuận trong nội bộ công ty về lĩnh vực phân phối, nghiên cứu và triển khai, phân bổ chi phí,.. và các thông tin về sản phẩm và công tác marketing, chẳng hạn như danh mục sản phẩm, báo cáo về phân tích tồn kho,... Các thông tin này có ích để thấu hiểu thông tin tập hợp được từ quá trình phỏng vấn.

4.2.2. Yêu cầu lưu trữ tài liệu chứng minh

Để kiểm tra chính sách định giá chuyển giao trong nội bộ TNC, cơ quan thuế nhất thiết phải yêu cầu các công ty có liên quan đưa ra các tài liệu chứng minh để giải trình về tính hợp lý của việc định giá vượt biên giới này. Do đó, các TNC cần thiết phải biết được yêu cầu hiện đang được áp dụng tại các quốc gia về việc lưu trữ và trình bày các tài liệu chứng minh về hoạt động chuyển giao của họ.

Ngoài ra, cơ quan thuế cũng cần phải quan tâm đến những vấn đề sau:

(i) Thu thập thông tin liên quan đến các công ty có quan hệ giao dịch với TNC đang xem xét

Tuy nhiên, vấn đề này liên quan đến luật pháp quốc tế về những công ty đó, mà điều này lại phụ thuộc vào sự kiểm soát của một cơ quan pháp chế

nước ngoài nên những thông tin về những công ty có quan hệ liên kết đó sẽ bị giới hạn trong một phạm vi hợp pháp nhất định.

Việt Nam hiện nay đã ký hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với 35 quốc gia, điều này góp phần thuận lợi cho cơ quan thuế Việt Nam trao đổi và thu thập thông tin từ các cơ quan thuế ở nước ngoài để phục vụ công tác đấu tranh chống chuyển giá trong nước.

(ii) Thu thập thông tin từ những đối thủ cạnh tranh

Các thông tin về việc định giá và khả năng sinh lợi của các đối thủ cạnh tranh có thể quyết định việc nhận biết các yếu tố so sánh liên quan đến việc chuyển giá. Chính vì vậy, cơ quan thuế cần yêu cầu các TNC đang xem xét xuất trình thêm các tài liệu về các đối thủ cạnh tranh để có thêm thông tin hỗ trợ trong việc kiểm soát chính sách định giá mà doanh nghiệp đang áp dụng.

(iii) Cần phải bảo mật thông tin để bảo vệ quyền lợi các doanh nghiệp

Mối quan tâm chính của nhiều TNC đối với những yêu cầu về việc xuất trình tài liệu và cung cấp thông tin cho cơ quan thuế là việc bảo mật thông tin. Vì vậy, để các công ty có thể tin cậy khi đưa ra các tài liệu chứng minh thì cơ quan thuế Việt Nam cần phải có những quy định đảm bảo về việc bảo mật thông tin do người chịu thuế cung cấp. Có thể quy định cụ thể những khoản phạt khi cơ quan thuế công bố trái phép những thông tin cần bảo mật.

(iv) Kiên quyết áp dụng các khoản phạt do không cung cấp đủ chứng từ chứng minh

Nếu các công ty không tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu về lưu trữ và cung cấp các tài liệu chứng minh thích hợp cho từng nghiệp vụ chuyển giao của mình thì cơ quan thuế phải kiên quyết áp dụng các hình phạt tương xứng cho từng trường hợp như: khoản phạt phát sinh do không đáp ứng các yêu cầu của cơ quan thuế, do không cung cấp đủ tài liệu,... Tóm lại, tính cưỡng chế phải được đề cao hơn nữa.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 17/09/2022