Lý Luận Về Thẩm Định Năng Lực Tài Chính Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Trong Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại.

giải pháp bên trong doanh nghiệp như: xây dựng phương thức quản trị vốn kinh doanh; giải quyết nợ xấu trong hoạt động bán hàng; thành lập cơ quan chuyên trách trong việc kiểm tra, giám sát quá trình quản lý, sử dụng vốn kinh doanh... Từ đó, đề xuất kiến nghị với chủ sở hữu, trong việc quản lý vốn và tài sản cho hiệu quả.

- Qua phân tích đánh giá NLTC doanh nghiệp, giúp cho chủ sở hữu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp lý về quản lý vốn và tài sản trong doanh nghiệp. Thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát; đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh; quản lý, sử dụng vốn kinh doanh trong các DNNVV.

6. Phương pháp nghiên cứu của luận án

Trong quá trình nghiên cứu, để thực hiện đề tài, NCS vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:

Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phương pháp hệ thống: Việc nghiên cứu công tác thẩm định NLTC DNNVV trong hoạt động cho vay tại NHTMCP Quân đội được thực hiện một cách đồng bộ gắn với hoàn cảnh, điều kiện và các giai đoạn cụ thể. Các nội dung của thẩm định được xem xét trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau cả về không gian và thời gian.

Phương pháp nghiên cứu định lượng:

- Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp: NCS sử dụng bảng hỏi (phiếu điều tra) để thu thập thông tin sơ cấp từ MB trên các khía cạnh về thẩm định NLTC DNNVV trong ngân hàng, các nhân tố ảnh hưởng đến thẩm định NLTC DNNVV vay vốn tại ngân hàng, sự cần thiết cũng như mức độ sử dụng các tiêu chí thẩm định NLTC DNNVV.

- Phương pháp thống kê, mô tả để phân tích thực trạng thẩm định NLTC DNNVV trong hoạt động cho vay của NHTM cổ phần Quân đội.

Phương pháp nghiên cứu định tính:

NCS sử dụng phương pháp này trong việc mô tả lại thực trạng thẩm định NLTC DNNVV tại MB. Đồng thời, NCS cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để phân tích đặc điểm môi trường kinh doanh của MB có ảnh hưởng đến hoạt động thẩm định NLTC DNNVV theo quan điểm cá nhân.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 245 trang tài liệu này.

Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp:

Các số liệu thống kê được thu thập thông qua nguồn dữ liệu thứ cấp trong Ngân hàng như: Báo cáo thường niên của ngân hàng, thông tin từ Phòng tài chính – kế toán, Phòng quỹ…. và ngoài Ngân hàng như: Tạp chí ngân hàng, Thời báo ngân hàng, số liệu về dịch vụ ngân hàng qua Internet…

Hoàn thiện thẩm định năng lực tài chính doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội 1684137068 - 4

Phương pháp phân tích số liệu:

Luận án sử dụng phương pháp thống kê: lập bảng biểu, phân tích, so sánh… để hỗ trợ cho việc phân tích thực trạng NLTC DNNVV tại Ngân hàng Quân đội.

7. Những đóng góp mới của luận án

Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của thẩm định NLTC DNNVV là khách hàng vay vốn tại NHTMCP Quân đội với những đóng góp sau:

Về lý luận:

Hệ thống hóa và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thẩm định NLTC DNNVV vay vốn tại tại các NHTM nói chung và tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội nói riêng.

Về thực tiễn:

- Luận án đã đánh giá, phân tích theo các nội dung về NLTC DNNVV, các loại tiêu chí (định tính, định lượng) là khá toàn diện và đầy đủ. Đồng thời, NCS trình bày một ví dụ minh họa về đánh giá NLTC của một khách hàng – CTCP Lilama 3.3 là phù hợp với nội dung đề tài luận án. Kết quả đánh giá đó cho thấy mức độ NLTC của các DNNVV vay vốn để ngân hàng quyết định cho vay một cách chính xác trong thời gian nghiên cứu thực trạng, mà các công trình khoa học trước đây chưa đi sâu nghiên cứu.

- Trên cơ sở nguồn số liệu sơ cấp khảo sát 150 CVTĐ tại các chi nhánh của MB, sử dụng phương pháp phân tích mô tả kết hợp với phân tích 1 báo cáo thẩm định về DNVV mà MB đã thực hiện trong năm 2017 để đề xuất các giải pháp hoàn thiện thẩm định NLTC DNNVV vay vốn tại MB. Các nhóm giải pháp của luận án được chia thành:

(1) Hoàn thiện nội dung thẩm định

(2) Hoàn thiện quy trình thẩm định

(3) Hoàn thiện phương pháp thẩm định

(4) Hoàn thiện tổ chức công tác thẩm định Trong đó:

- Về hệ thống chỉ tiêu đánh giá NLTC DNNVV vay vốn tại MB: NCS đã đề xuất thêm 1 số chỉ tiêu định lượng có thể sử dụng trong thẩm định NLTC DNNVV tại MB. Đặc biệt, hiện nay khi thẩm định NLTC DNNVV, Ngân hàng Quân đội mới chỉ tính toán các chỉ tiêu định lượng và so sánh năm sau với năm trước hoặc một số chỉ tiêu so sánh với số tuyệt đối (ví dụ Hệ số trả nợ an toàn tối thiểu là 1) mà chưa có sự so sánh tương quan ngành. Điều này dẫn đến tình trạng đánh giá chưa toàn diện sức khỏe tài chính của doanh nghiệp, bởi có thể chỉ tiêu nào đó của doanh nghiệp kém hơn so với năm trước nhưng do bối cảnh chung của nền kinh tế khiến cho phần lớn các doanh nghiệp trong ngành lâm vào tình trạng tương tự. Do đó, NCS đã tính toán các tiêu chí trung bình cho từng ngành đối với các DNNVV trong nền kinh tế làm căn cứ cho MB đối chiếu, so sánh. Đây là những nhóm tiêu chí khá đầy đủ, hàm chứa những nội dung toán học và khoa học kinh tế lượng chuẩn xác. Do vậy, có thể sử dụng để đánh giá đúng mức độ về NLTC của DNNVV trong thẩm định NLTC tại NHTM Quân đội.

- Về phương pháp thẩm định NLTC DNNVV vay vốn tại MB: Bên cạnh việc chỉ ra một số lưu ý khi sử dụng các phương pháp hiện tại (ví dụ đối với phương pháp so sánh, ngoài việc so sánh năm sau với năm trước như hiện đang làm, MB có thể xem xét so sánh với trung bình ngành theo tính toán của NCS đã trình bày ở trên, so sánh với kế hoạch mà chính DNNVV đã đề ra…), NCS đưa ra giải pháp về việc bổ sung phương pháp phân tích mới như phương pháp Dupont, phương pháp phân tích SWOT và phương pháp tổng hợp. Mặc dù các phương pháp này đã được trình bày trong một số tài liệu chuyên ngành, việc kết hợp các phương pháp trong hoạt động thẩm định lại chưa được đề cập.

8. Kết cấu của luận án

Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận án được kết cấu thành 3 chương.

Chương 1. Lý luận về thẩm định năng lực tài chính doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.

Chương 2. Phương pháp nghiên cứu về hoàn thiện thẩm định năng lực tài chính doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội.

Chương 3. Thực trạng thẩm định năng lực tài chính doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội.

Chương 4. Giải pháp hoàn thiện thẩm định năng lực tài chính doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội.

CHƯƠNG 1.

LÝ LUẬN VỀ THẨM ĐỊNH NĂNG LỰC TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động của ngân hàng thương mại

1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và hoạt động theo định chế trung gian mang tính chất tổng hợp. Khi sản xuất phát triển thì nhu cầu trao đổi mở rộng sản xuất giữa các vùng lãnh thổ, giữa các quốc gia tăng lên, để khác phục sự khác biệt về tiền tệ giữa các khu vực thì thì xuất hiện các thương gia làm nghề đổi tiền. Khi trao đổi hàng hoá phát triển quay trở lại kích thích sản xuất hàng hóa. Cùng với sự phát triển đó, các nghiệp vụ được phát triển dần như giữ tiền hộ, chi trả hộ... trên cơ sở đó thực hiện hoạt động tín dụng.

Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng các dịch ngân hàng cho KH trong nền kinh tế quốc dân.

NHTM có các đặc trưng cơ bản sau đây:

- Là tổ chức được phép nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả

- Sử dụng tiền gửi của KH để cho vay, chiết khấu, đầu tư…

- Thực hiện các khoản thanh toán và các dịch vụ ngân hàng cho KH. Những tổ chức tín dụng nào có đầy đủ ba đặc trưng trên mới được coi là NHTM.

1.1.1.2. Phân loại ngân hàng thương mại

NHTM được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Một số cách phân loại phổ biến như sau:

Căn cứ vào tiêu thức sở hữu và góp vốn, NHTM được chia thành:

- NHTM nhà nước là ngân hàng thuộc sở hữu của Nhà nước, được thành lập bằng 100% vốn của ngân sách nhà nước cấp.

- NHTM cổ phần là ngân hàng được thành lập dưới hình thức một công ty cổ phần, vốn của nó là do các cổ đông đóng góp.

- NHTM liên doanh là ngân hàng được thành lập dưới hình thức góp vốn liên doanh giữa các đối tác sở hữu khác nhau.

- NHTM nước ngoài, bao gồm: chi nhánh là ngân hàng được thành lập theo pháp luật và thuộc sở hữu của nước ngoài và ngân hàng 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài được Chính phủ nước sở tại cấp giấy phép hoạt động và tuân thủ theo pháp luật của nước đó.

Căn cứ vào tiêu thức số lượng chi nhánh, NHTM được chia thành hai loại:

- NHTM duy nhất là loại hình NHTM chỉ có một hội sở hoạt động duy nhất trên phạm vi lãnh thổ quốc gia.

- NHTM mạng lưới là loại hình NHTM có hội sở Trung ương và các chi nhánh hoạt động trên lãnh thổ quốc gia và ở nước ngoài.

Căn cứ vào tiêu thức chuyên môn hóa hoạt động, NHTM được chia thành hai loại:

- NHTM chuyên ngành là ngân hàng phục vụ cho một, hay một nhóm ngành kinh tế.

- NHTM đa ngành là ngân hàng phục vụ cho mọi ngành kinh tế trên một địa bàn nhất định.

Ngoài các tiêu thức nêu trên, người ta còn có thể dựa vào một số tiêu thức khác để phân chia các loại NHTM như doanh số hoạt động, cơ quan cấp giấy phép, nghiệp vụ kinh doanh… Tuy nhiên, cách phân loại dựa vào tiêu thức sở hữu và góp vốn được coi là ưu việt nhất bởi vì NHTM theo tiêu thức này là một trong những tiêu nội dung quan trọng để Nhà nước quản lý và đánh giá hiệu quả hoạt động của từng loại NHTM.

1.1.1.3. Các hoạt động của ngân hàng thương mại

NHTM là một tổ chức kinh doanh về tiền tệ, tín dụng với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán.

NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật nhằm mục tiêu lợi

nhuận. Theo đặc điểm của hoạt động, các hoạt động kinh doanh của NHTM bao gồm:

Các hoạt động kinh doanh chủ yếu:

Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ: nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.

Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, các NHTM được cấp tín dụng dưới các hình thức: cho vay, chiết khấu; tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và các giấy tờ có giá khác; bảo lãnh ngân hàng; phát hành thẻ tín dụng; bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc tế đối với các ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế; các hình thức cấp tín dụng khác sau khi được NHNN chấp thuận.

Các hoạt động kinh doanh khác:

- Vay vốn của NHTW, tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính.

- Kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối và sản phẩm phái sinh

- Kinh doanh trái phiếu

- Góp vốn, mua cổ phần

- Cung ứng dịch vụ

Bên cạnh các hoạt động kinh doanh được phép thực hiện, Luật các tổ chức tín dụng cũng quy định các NHTM dược phép thực hiện gián tiếp thông qua việc thành lập hay mua lại công ty con, công ty liên kết, bao gồm: Bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán; quản lý, phân phối chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và mua, bán cổ phiếu; cho thuê tài chính; bảo hiểm.

1.1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại

1.1.2.1. Khái niệm

Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận. Doanh thu từ hoạt động cho vay mới bù đắp nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí rủi ro đầu tư.

Ở một số nước phát triển, cho tới nay, khi một ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt động, mối quan tâm chính và thường xuyên của nó là cho ai vay, và đầu tư vào đâu. Ở những nước này, đối tượng cho vay là điều làm bận tâm nhiều hơn, nếu không nói là vấn đề quan trọng nhất. Trong khi đó ở các nước phát triển tình hình lại ngược lại. Vấn đề đặt ra cho các ngân hàng không phải vấn đề cho ai vay, mà lợi tức có cao không và an toàn không. Thậm chí những lo ngại đại loại như vậy thực tế đã không còn vì hầu hết họ đã có những thị phần chắc chắn và vấn đề an toàn của vốn đã có pháp luật bảo đảm. Điều họ quan tâm là làm sao huy động được ngày càng nhiều tiền cho các khoản đầu tư có sẵn.

Cho vay của ngân hàng thương mại, nói rộng ra là tín dụng ngân hàng thương mại, là một lĩnh vực phức tạp và thường xuyên cập nhật theo những biến chuyển của môi trường kinh tế. Để hiểu nó, chúng ta cần tìm hiểu những nét đặc trưng quan trọng của nó.

Cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu (NHTM) sang người sư dụng (người vay – KH) sau một thời gian nhất định lại quay về với lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.

Hay: Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho KH một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi (Theo Luật các tổ chức tín dụng 2010).

Trong hoạt động cho vay tại NHTM, NHTM với tư cách là người cho vay (chủ nợ) bắt buộc người đi vay (con nợ) phải có nghĩa vụ hoàn trả một số tiền theo cam kết trong hợp đồng. Với tư cách là người cho vay, các NHTM có quyền yêu cầu KH của mình – người đi vay muốn vay được vốn phải tuân thủ những điều kiện nhất định, những điều kiện này là cơ sở ràng buộc về mặt pháp lý đảm bảo cho người cho vay có thể thu hồi được vốn (gốc + lãi) sau một thời gian nhất định. Để thu hồi được vốn, các NHTM yêu cầu người đi vay đáp ứng được những điều kiện vay cụ thể dựa trên cơ sở mức độ tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau giữa ngân hàng và KH.

1.1.2.2. Phân loại cho vay

Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cho vay của NHTM rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Việc áp dụng từng loại cho vay tùy thuộc

Xem tất cả 245 trang.

Ngày đăng: 15/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí