Khái Niệm Năng Lực Cạnh Tranh Điểm Đến Du Lịch

Yakin & cộng sự (2015)

Nguồn: Tóm tắt từ các nghiên cứu trước đây

Trong quá trình lược khảo tài liệu mô hình cạnh tranh điểm đến từ các bên có liên quan của (Yoon, 2002), mô hình NLCT điểm đến của (Ritchie & Crouch, 2003), mô hình các nhân tố quyết định NLCT điểm đến (Dwyer & Kim, 2003), mô hình NLCT của các hòn đảo du lịch nhỏ đang phát triển tại Mỹ (Craigwell, 2007), mô hình tích hợp NLCT điểm đến du lịch Serbia của (Armenski Tanja & cộng sự, 2011), mô hình nhân tố quyết định NLCT điểm đến du lịch của (Gianluca Goffi, 2016), tác giả dựa trên mô hình NLCT điểm đến của (Ritchie & Crouch, 2003), để từ đó tác giả xây dựng mô hình NLCT điểm đến du lịch ở tỉnh Bạc Liêu. Điểm khác biệt của mô hình này là có vận dụng Marketing điểm đến vào trong nghiên cứu, làm kích thích nhu cầu đi du lịch của du khách, nâng cao chất lượng dịch vụ để có sản phẩm du lịch tuyệt hảo, đồng thời tích cực, chủ động xây dựng thương hiệu để làm nổi bật hình ảnh điểm đến Bạc Liêu, nhằm mục đích nâng cao NLCT điểm đến du lịch ở Bạc Liêu, thu hút du khách đến với Bạc Liêu ngày càng nhiều hơn.

2.2 CÁC KHÁI NIỆM

2.2.1 Khái niệm du lịch

Hiện nay hoạt động du lịch ngày càng phát triển mạnh mẻ, không chỉ đơn thuần là đi nghỉ dưỡng, giải trí mà kết hợp du lịch với công việc, tìm kiếm

các cơ hội kinh doanh hay đi học tập, nghiên cứu khoa học. Do điều kiện kinh tế, xã hội, thời gian, không gian, và góc độ nghiên cứu khác nhau, nên mỗi ngành khoa học, mỗi cá nhân đều có cách hiểu khác nhau về du lịch. Chúng ta có thể tìm hiểu một vài khái niệm về du lịch:

Theo Tổ chức Du lịch Thế giới: “Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những du khách, tạm trú, với mục đích tham quan, khám phá, tìm hiểu, trải nghiệm giải trí, thư giản, cũng như những mục đích khác, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư, nhưng loại trừ các du khách có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư”. Như vậy, khái niệm về du lịch của tổ chức du lịch thế giới đã đề cập khá rõ ràng, cụ thể về mục đích du lịch, cũng như khoảng thời gian, không gian liên quan đến du lịch. Theo Liên hiệp Quốc các tổ chức lữ hành chính thức (Internationnal Union of Official Travel Oragnization – IUOTO): Du lịch được hiểu là hành động du hành đến một nơi khác với địa điểm cư trú thường xuyên của mình không nhằm mục đích để làm ăn”. Theo định nghĩa của Hội nghị Liên hợp Quốc tế về du lịch ở Italia: “Du lịch là tổng hòa các mối quan hệ, các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi để học tập và làm việc”. Theo định nghĩa của Hội nghị Quốc tế về du lịch ở Canada tháng: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài nơi ở của mình, trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, với mục đích của chuyến đi không phải là để kiếm tiền”. Theo Luật Du lịch Việt Nam thì: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.

Nói tóm lại, căn cứ vào các định nghĩa về du lịch ở trên, chúng ta có thể hệ thống lại một số nội dung cơ bản về du lịch để làm định hướng cho nghiên cứu luận án: Du lịch là một hiện tượng kinh tế-xã hội có những đặc trưng về sự tăng nhanh số lượng, phạm vi và cơ cấu dân cư tham gia vào quá trình du lịch ở các nước, các khu vực và trên toàn thế giới. Du lịch là việc đi lại, lưu trú tạm thời của mỗi người ngoài nơi ở thường xuyên của mình, với mục đích và nhu cầu khác nhau. Du lịch là tổng hợp các hoạt động kinh doanh thương mại dịch vụ nhằm phục vụ các nhu cầu của con người.

2.2.2 Khái niệm điểm đến du lịch

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 311 trang tài liệu này.

Theo Tổ chức du lịch thế giới (UNWTO): “Điểm đến du lịch là một không gian vật chất mà du khách ở lại ít nhất một đêm. Nó bao gồm các sản phẩm du lịch, dịch vụ hỗ trợ, các điểm đến và tuyến điểm du lịch trong thời gian một ngày. Nó có các giới hạn vật chất, hình ảnh, và sự quản lý trong thị trường cạnh tranh. Các điểm đến du lịch thường một cộng đồng, một tổ chức và có thể kết nối lại với nhau để tạo thành một điểm đến du lịch lớn hơn”. Hu & Ritchie (1993) coi địa điểm du lịch là “một gói sản phẩm và dịch vụ du lịch, giống như bất kỳ sản phẩm tiêu dùng nào, là sự kết hợp của rất nhiều thuộc tính đa chiều khác nhau”, và ông cũng đã cho rằng “điểm đến du lịch là phản ánh cảm xúc, niềm tin, và lựa chọn mà du khách có thể thỏa mãn nhu cầu nghỉ ngơi”.

Leiper (1993) nói rằng điểm đến là các địa điểm mà người ta đến để du lịch và là nơi du khách nghỉ trong một khoảng thời gian để trải nghiệm du lịch. Tuy nhiên còn phụ thuộc vào các nhân tố thu hút khách tại điểm đến. Nhiều nhà nghiên cứu đã tìm cách đánh giá và phân loại điểm đến dưới dạng các sản phẩm du lịch. Theo Laws (1995) cho rằng, các điểm đến du lịch là một nơi người ta đến vào những ngày nghỉ; và các yếu tố kèm theo đó là địa điểm, con người và ngày nghỉ. Gần đây việc khái niệm điểm đến còn bao gồm cả: 1) các tác động của hoạt động du lịch như về kinh tế, xã hội, môi trường và sinh thái;

Nâng cao năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch ở Bạc Liêu - 6

2) việc quản lý nhu cầu trong ngành du lịch như đánh giá, kiểm soát chất lượng, có thêm ưu đãi; và 3) quản lý của ngành du lịch tác động lên điểm đến liên quan đến các mục tiêu, kế hoạch của ngành du lịch. Theo Seaton & Bennett (1996) quan niệm, điểm đến du lịch giống như một nơi khác lạ và phức tạp. Để hiểu được các điểm đến thì cần phải xem xét bối cảnh kinh tế, xã hội và môi trường khác nhau trong phạm vi các điểm đến của ngành du lịch. Theo Cooper & cộng sự (1998) xem điểm đến giống như nơi tập hợp các dịch vụ và điều kiện thuận lợi được thiết kế sẵn nhằm đáp ứng các nhu cầu của du khách. Tuy nhiên về mặt địa lý, điểm đến được hiểu là nơi di chuyển của du khách. Thực chất, một điểm đến có đầy đủ tất cả các khía cạnh của ngành du lịch như nhu cầu, vận chuyển, cung cấp dịch vụ và tiếp thị. Nó là yếu tố quan trọng nhất của hệ thống du lịch bởi vì điểm đến và hình ảnh điểm đến có thể thu hút khách du lịch, thúc đẩy du khách đến và tiếp sức cho toàn bộ hệ thống du lịch. Theo (Crouch & Ritchie, 1999; Hassan, 2000) những thành phần chính này góp phần quan trọng vào việc duy trì và nâng cao NLCT điểm đến du lịch.

Theo Viện Nghiên cứu Phát triển du lịch (2000): Điểm đến du lịch là một khái niệm rất rộng trong hoạt động kinh doanh du lịch, là nơi có sức hấp dẫn

và có sức thu hút khách du lịch. Điểm đến du lịch dựa vào tài nguyên du lịch. Tương tự, Murphy, Pritchard & Smith (2000) cho rằng, điểm đến du lịch giống như tập hợp các sản phẩm kết hợp lại với nhau tạo nên trải nghiệm về điểm tham quan đó. Các điểm đến du lịch thường cung cấp các sản phẩm dịch vụ để phát triển du lịch. Cụ thể Ritchie & Crouch (2000), Mihalic (2000) đã đề xuất các nhân tố thu hút du khách tại điểm đến là những ưu thế về lợi thế cạnh tranh.

Theo Mihalic (2000) nghiên cứu chất lượng môi trường của các nhân tố cạnh tranh tại điểm đến, bao gồm 11 nhân tố hấp dẫn như: tính chất tự nhiên, khí hậu, đặc điểm văn hóa và xã hội, cơ sở hạ tầng, các dịch vụ cơ bản, cơ sở du lịch, tiếp cận hệ thống giao thông, thái độ với khách du lịch, mức giá, kinh tế xã hội và tính độc đáo. Những nhân tố thu hút tại điểm đến được xem là chất lượng môi trường điểm đến. Đây là một phần không thể tách rời của chất lượng các nhân tố thu hút tự nhiên. Do đó, người ta đã tranh luận rằng duy trì chất lượng môi trường ở mức cao là quan trọng đối với NLCT của hầu hết các điểm đến dành cho du khách.

Tóm lại: Có khá nhiều cách hiểu khác nhau về điểm đến du lịch, song về cơ bản, điểm đến du lịch được hiểu là một vùng địa lý được xác định cụ thể trong đó khách du lịch tận hưởng các loại trải nghiệm du lịch khác nhau để thỏa mãn nhu cầu của chuyến đi của du khách.

2.2.3 Khái niệm năng lực cạnh tranh

Theo mô hình cạnh tranh trong kinh doanh: NLCT là thể hiện thực lực và lợi thế của chủ thể kinh doanh so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao hơn.

Theo diễn đàn kinh tế thế giới: NLCT của một tổ chức hoặc quốc gia là để sản xuất và bán các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của thị trường với mức giá tương đương hoặc thấp hơn và tối đa hóa lợi nhuận.

Theo từ điển kinh tế học: NLCT là khả năng giành được thị phần, trước đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đối thủ.

Như vậy khái niệm NLCT là thể hiện thực lực, lợi thế cạnh tranh của chủ thể kinh doanh và để đo lường thông qua thị phần chiếm lĩnh thị trường so với đối thủ cạnh tranh, không ngừng nâng cao chất lượng, sản phẩm, dịch vụ, nhằm đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng.

Với cách tiếp cận NLCT trên, theo diễn đàn kinh tế thế giới: NLCT của doanh nghiệp dựa trên việc khai thác, sử dụng thực lực và lợi thế bên trong,

bên ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm, dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng để tồn tại và phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.

Theo quan điểm của Porter (1980) NLCT là khả năng sáng tạo nên các lợi thế cạnh tranh mới của doanh nghiệp để làm ra năng suất, chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, từ đó chiếm lĩnh được thị phần, có thu nhập cao và phát triển bền vững. Ông cho rằng mỗi ngành nghề kinh doanh cũng đều có 5 nhân tố tác động: (i) Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh trên thị trường; (ii) Sự đe dọa từ đối thủ mới bắt đầu gia nhập vào thị trường; (iii) Nguy cơ các sản phẩm có thể thay thế được; (iv) Quyền thương lượng của người mua; (v) Quyền thương lượng của nhà cung cấp.

Theo Aldington Report (1985) nhận định rằng, doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ với chí phí thấp, nhưng chất lượng sản phẩm, dịch vụ cao hơn so với đối thủ cạnh tranh. Với mục đích muốn cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh đạt được hiệu quả lâu dài, để đảm bảo cho người lao động và chủ doanh nghiệp có thu nhập cao.

Còn theo ông Fafchamps (1999) cho rằng, NLCT là khả năng doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm có chi phí thấp hơn so với chí phí đối thủ cạnh tranh, nhưng chất lượng sản phẩm tương đồng với nhau, thì doanh nghiệp đó được xem là doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao.

Như vậy, trong thực tế, từ trước đến nay có nhiều khái niệm khác nhau về NLCT của doanh nghiệp. Theo Barclay (2005) và Williams (2007) việc xác định được các nhân tố để cải thiện khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là rất quan trọng bởi những nhân tố này là sự đổi mới các tiêu chuẩn, khả năng lãnh đạo, tập trung nghiên cứu chất lượng sản phẩm, nhằm đáp ứng được nhu cầu khách hàng. Trong điều kiện hiện nay, lấy yêu cầu của khách hàng làm mục tiêu để đánh giá NLCT của doanh nghiệp. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải tạo ra những sản phẩm dịch vụ làm hài lòng khách hàng, không phải bán những cái doanh nghiệp có, mà bán cái khách hàng cần. Trong điều kiện các doanh nghiệp du lịch Việt Nam với quy mô hoạt động thuộc dạng doanh nghiệp nhỏ và vừa; năng lực kinh doanh của doanh nghiệp còn hạn chế, cho nên việc áp dụng các khái niệm NLCT dựa vào khả năng của doanh nghiệp du lịch Bạc Liêu là phù hợp với năng suất lao động, khả năng sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao, giá cả thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước.

2.2.4 Khái niệm năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch

NLCT điểm đến du lịch là một khái niệm khá phức tạp. Theo Crouch & Ritchie (1999) các nhân tố có vai trò quan trọng ảnh hưởng đến NLCT điểm đến du lịch bao gồm: Cơ sở vật chất kỹ thuật, lịch sử, văn hóa, các mối quan hệ với thị trường, các hoạt động kinh doanh du lịch và sự kiện tại điểm đến. Theo các tác giả Dwyer, Forsyth & Rao (1999) cho rằng, NLCT ngành du lịch là một khái niệm tổng hợp nhiều thành phần, bao gồm sự chênh lệch về giá, sự biến động của tỷ giá hối đoái, năng suất của mỗi loại khác nhau trong ngành du lịch và các yếu tố tạo nên sự thu hút của một điểm du lịch. Theo D‟Hartserre (2000) NLCT điểm đến là khả năng của doanh nghiệp du lịch có thể duy trì, đứng vững trên thị trường và cải tiến sản phẩm theo thời gian. Hassan (2000) nhận định rằng, NLCT là khả năng của doanh nghiệp du lịch có thể tạo ra giá trị gia tăng của các sản phẩm để duy trì nguồn lực và tạo dựng được vị thế của mình trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh.

Theo các tài liệu nghiên cứu về du lịch, NLCT điểm đến là một nhân tố rất quan trọng cho sự thành công của doanh nghiệp du lịch và điểm tham quan du lịch; quan điểm này đã nhận được sự quan tâm ngày càng nhiều từ các nhà nghiên cứu du lịch, các doanh nghiệp du lịch, các điểm đến du lịch, và các nhà hoạch định chính sách (D‟Hauteserre, 2000; Buhalis, 2000; Hassan, 2000; Richie & Crouch, 2000, 2003; Dwyer & Kim, 2003). Theo Dwyer & Kim (2003) NLCT của một điểm tham quan du lịch là khả năng cung cấp sản phẩm, dịch vụ tốt hơn so với các điểm tham quan khác dựa trên kinh nghiệm đi du lịch của du khách. Theo Enright & Newton (2005) NLCT của điểm đến du lịch là tạo ra một chuỗi giá trị về chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Theo Macchiavelli (2009) NLCT của điểm đến du lịch là gia tăng khả năng thu hút khách du lịch.

Theo Bernini (2009) cho rằng, các khu du lịch kết hợp các doanh nghiệp du lịch, cung cấp thêm các hoạt động vui chơi giải trí, các dịch vụ du lịch là nhằm tăng thêm giá trị cho các hoạt động điểm đến. Trên cơ sở đó, nó sẽ tạo ra các liên kết trong du lịch, nhằm khuyến khích sự sáng tạo trong hoạt động kinh doanh du lịch. Thêm vào đó, sự hỗ trợ qua lại, làm việc với nhau giúp nhân viên các điểm đến này có nhiều cơ hội để quan sát hành vi của nhau, bắt chước nhau và học hỏi kinh nghiệm của nhau, cùng giúp nhau phát triển. (Denicolai & cộng sự, 2010).

Sự hợp tác của các điểm du lịch cũng cho phép những năng lực cốt lõi được kết hợp và kiến thức mới được hiểu sâu hơn (Denicolai & cộng sự, 2010). Chính quyền địa phương và các tổ chức nghề nghiệp đóng một vai trò

quan trọng trong việc kết nối và quản lí nguồn nhân lực chung. Họ có thể tổ chức các khóa huấn luyện nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới hoạt động của tổ chức để nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu của khách tham quan (Molina & cộng sự, 2010).

Theo Armenski (2011) NLCT của điểm đến du lịch là tăng cường hiệu quả quản lý điểm đến. Theo Steven Pikea & Stephen J.Page (2014) NLCT của điểm đến là thúc đẩy năng lực marketing điểm đến để phát triển bền vững trong tương lai. NLCT của ngành du lịch chính là kết quả từ NLCT của các doanh nghiệp du lịch tại địa phương. Vì vậy, doanh nghiệp du lịch được cho là có NLCT anh nếu có thể duy trì và cải thiện hình ảnh tại điểm đến du lịch. Như vậy, các khách sạn, nhà hàng, các doanh nghiệp dịch vụ được xem là ngành công nghiệp liên quan và hỗ trợ cho ngành du lịch phát triển. Một trong những mối quan hệ của sự liên kết chặt chẽ giữa khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch và NLCT chung của điểm đến du lịch là một sản phẩm dịch vụ du lịch tích hợp. Các sản phẩm dịch vụ du lịch này là một tập hợp các nhân tố hữu hình và vô hình. Từ quan điểm trên, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch, khu du lịch được dựa trên mức độ mà các sản phẩm dịch vụ du lịch tích hợp lại với nhau.

Tóm lại, hiện nay đang tồn tại những quan điểm khác nhau về NLCT của điểm đến du lịch. NLCT của điểm đến du lịch luôn gắn liền và có vai trò quan trọng đối với NLCT của điểm đến tại địa phương. Từ những quan điểm NLCT của doanh nghiệp nói chung và điểm đến du lịch nói riêng của các nghiên cứu trên, tác giả tâm đắc với những quan điểm về NLCT sau: Theo Macchiavelli (2009) NLCT của điểm đến du lịch làm gia tăng khả năng thu hút khách du lịch; Armenski & cộng sự (2011) cho rằng NLCT của điểm đến du lịch làm tăng cường hiệu quả quản lý điểm đến; Steven & Stephen (2014) NLCT của điểm đến là thúc đẩy năng lực marketing điểm đến để phát triển bền vững trong tương lai. Do vậy, nghiên cứu này tiếp cận đánh giá NLCT theo các quan điểm trên.

2.3 LÝ THUYẾT LỢI THẾ CẠNH TRANH VÀ CÁC LÝ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN

Lý thuyết làm nền tảng cho nghiên cứu này là lý thuyết lợi thế cạnh tranh của (Porter, 1985). Lý thuyết NLCT, cho chúng ta hiểu biết sâu sắc về hiện tượng cạnh tranh và các kết nối trong hoạt động du lịch. Ngoài ra, lý thuyết về các bên liên quan có ảnh hưởng đến sự thành công của điểm đến cũng được đưa vào đánh giá khả năng cạnh tranh của điểm đến. Trước tiên chúng ta nghiên cứu lý thuyết làm nền tảng đưa vào luận án này.

2.3.1 Lý thuyết lợi thế cạnh tranh

Trong những năm 1980, khái niệm về lợi thế cạnh tranh đã phổ biến thuật ngữ này và được bắt nguồn từ công trình của Michael Porter. Porter (1985) giải thích rằng lợi thế cạnh tranh xuất phát từ giá trị của một công ty có thể tạo ra sản phẩm cho những người mua vượt quá chi phí của công ty khi tạo ra sản phẩm đó. Giá trị ở đây là những gì người mua sẵn sàng trả tiền để có sản phẩm, và giá trị vượt trội bắt nguồn từ việc đưa ra sản phẩm với mức giá thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh hoặc cung cấp sản phẩm với lợi ích độc nhất so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh có giá cao hơn (Porter, 1985). Quan điểm của khái niệm này tập trung chủ yếu vào khách hàng và giá trị so sánh (Bredrup, 1995) và phân biệt hai loại lợi thế cạnh tranh cơ bản: dẫn đầu về chi phí (bằng cách là nhà sản xuất cho ra sản phẩm chi phí thấp nhất) và phân biệt (bằng cách cung cấp lợi ích duy nhất). Hơn nữa, nó giải thích rằng việc đạt được lợi thế cạnh tranh dẫn đến hiệu suất cao hơn.

Theo Porter (1990) NLCT là một khái niệm đa chiều, nó có thể được xem xét từ ba cấp độ khác nhau, (1) quốc gia; (2) ngành và (3) doanh nghiệp. Trong nghiên cứu này, tác giả tiếp cận NLCT theo cấp độ doanh nghiệp. Mô hình này được xem là công cụ hữu dụng và hiệu quả để tìm hiểu nguồn gốc chiến lược cạnh tranh để doanh nghiệp duy trì và tăng lợi nhuận. Ông cho rằng NLCT là khả năng sáng tạo của doanh nghiệp để tạo ra năng suất, chất lượng cao hơn đối thủ, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. Mô hình của Porter (1990) đã đề xuất 5 áp lực cạnh tranh, (1) xác định cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang tồn tại (2) mối đe dọa về đối thủ mới tham gia vào thị trường (3) nguy cơ có các sản phẩm thay thế mới xuất hiện

(4) doanh nghiệp chịu sự chi phối bởi nhà cung ứng (5) doanh nghiệp bị áp lực bởi thương lượng của khách hàng. Mô hình của Porter (1990) cho chúng ta hiểu được các yếu tố hình thành nên sự cạnh tranh trong một doanh nghiệp, từ đó giúp chúng ta điều chỉnh chiến lược của mình phù hợp với môi trường cạnh tranh và để cải thiện lợi nhuận trong tương lai. Sau đây là mô hình năm áp lực cạnh tranh của Porter

Xem tất cả 311 trang.

Ngày đăng: 29/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí