Các Tiêu Chí Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Của Nhtm 82665


- Các hoạt động về ngân quỹ:

+ Dự trữ bắt buộc: đây là khoản dự trữ mà Ngân hàng nhà nước yêu cầu các NHTM nộp vào tài khoản tại nHNN nhằm hỗ trợ, bảo đảm an toàn cho hoạt động của NHTM, vận hành chính sách tiền tệ quốc gia, quản lý hoạt động NHTM.

+ Dự trữ thanh toán: Là các khoản dự trữ tồn tại dưới dạng tiền mặt tại quỹ, các khoản tiền gửi tại TCTD khác, tiền trong quá trình thu. Đây là tài sản không sinh lời nhưng là tài sản có tính thanh khoản cao nhất, đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên.

- Cho vay: là hoạt động ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn (cho vay) cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Cho vay là khoản mục có tỷ lệ cao nhất trong các loại tài sản của Ngân hàng.

- Hoạt động đầu tư: Ngân hàng nhường quyền sở hữu cho Tổ chức khác dưới hình thức hùn vốn, góp vốn, thu nhập căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận, tỷ lệ góp vốn.Có nhiều hình thức đầu tư như: đầu tư chứng khoán, đầu tư vào các dự án, đầu tư dưới dạng liên doanh để hình thành Ngân hàng liên doanh…

*/ Hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính:

- Cung cấp dịch vụ ngân hàng: dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, dịch vụ thanh toán liên ngân hàng, thanh toán đa phương, thanh toán bù trừ, thanh toán bằng séc, thanh toán bằng thẻ…

- Cung cấp các dịch vụ tài chính : Dịch vụ uỷ thác, tư vấn là dịch vụ quản lý tài sản, tài chính, uỷ thác cho Ngân hàng sử dụng vốn của khách hàng để đầu tư kinh doanh, tư vấn cho khách hàng về tài chính; Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán ; dịch vụ bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, …


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.

1.1.2. Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của NHTM

1.1.2.1. Nội dung cạnh tranh của các NHTM

Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - 3

*/ Khái niệm cạnh tranh

Khái niệm về cạnh tranh đã được đề cập đến từ rất lâu, qua thời gian và không gian các quan niệm về cạnh tranh cũng khác nhau. Theo từ điển kinh doanh Anh xuất bản năm 1992 thì cạnh tranh được xem là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”.

Ở Việt Nam, đề cập đến “cạnh tranh ” một số nhà khoa học cho rằng cạnh tranh là vấn đề dành lợi thế về giá cả hàng hoá- dịch vụ và đó là phương thức để dành lợi nhuận cao nhất cho các chủ thể kinh tế. Nói khác đi là dành lợi thế để hạ thấp chi phí các yếu tố “đầu vào” của chu trình sản xuất kinh doanh và nâng cao giá của “đầu ra” sao cho mức chi phí thấp nhất.

Như vậy, trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và do đó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác, đồng thời với tối đa hoá lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh cũng là quá trình tích luỹ và tập trung tư bản không đồng đều ở các doanh nghiệp. Và từ đó cạnh tranh còn là môi trường phát triển mạnh mẽ cho các chủ thể kinh doanh thích nghi được với điều kiện thị trường.

Tóm lại: Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh quyết liệt giữa các chủ thể kinh tế, nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi về mình để thu lợi nhuận cao nhất.

*/ Nội dung cạnh tranh của các NHTM:

NHTM cũng là doanh nghiệp vì thế môi trường hoạt động kinh doanh của các NHTM có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Do xuất phát từ đặc thù của hoạt động kinh doanh Ngân hàng và những ảnh hưởng của hoạt động


ngân hàng đối với nền kinh tế, cạnh tranh của NHTM có những đặc trưng riêng, đó là:

- Các NHTM vừa cạnh tranh gay gắt vừa hợp tác với nhau: cũng như bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, trong hoạt động của mình, các ngân hàng luôn phải cạnh tranh gay gắt với nhau để mở rộng thị trường và thu hút khách hàng nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Tính gay gắt trong cạnh tranh ngân hàng xuất phát từ đặc thù của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có tính tương đồng cao và rất dễ bị bắt chước.Mặt khác trong cạnh tranh, các ngân hàng không chỉ sử dụng các công cụ mang tính truyền thống như phí, lãi suất, các dịch vụ… mà còn sử dụng công nghệ hiện đại để đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, đửâ các kênh phân phối mới và nâng cao chát lượng các sản phẩm, dịch vụ, tinh thần, thái độ phục vụ khách hàng…

Bên cạnh đó do điều kiện về vốn, mạng lưới, công nghệ có hạn trong khi nhu cầu, đòi hỏi về sản phẩm, dịch vụ ngân hàng ngày càng cao do đó các ngân hàng cũng phải liên kết với nhau để cung cấp một hay một số sản phẩm, dịch vụ nhất định cho khách hàng.Vì vậy, để tránh đổ vỡ toàn hệ thống cũng như tiết kiệm chi phí, đảm bảo an toàn trong kinh doanh, các NHTM một mặt cạnh tranh với nhau, một mặt hợp tác chặt chẽ với nhau trong cung cấp các sản phẩm dịch vụ.

- Cạnh tranh ngân hàng luôn phải hướng tới một thị trường lành mạnh tránh khả năng xảy ra rủi ro hệ thống: Các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng cung cấp ra thị trường phải có chất lượng, đáp ứng ngày tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ , đi vay để cho vay lại, nếu các NH cạnh tranh không lành mạnh, hoặc cạnh tranh thông qua việc tăng lãi suất huy động tiền gửi, giảm lãi suất cho vay, giảm phí dịch vụ, nới lỏng các điều kiện cho vay… sẽ làm cho nguồn thu của các Ngân hàng giảm sút, nguy cơ tiềm ẩn rủi ro tín dụng tăng cao dẫn đến rủi ro hệ thống. Vì vậy mặc


dù cạnh tranh với nhau trong hoạt động, các NHTM vẫn liên kết với nhau, có thể thoả thuận để giữ mặt bằng giá cả phù hợp đảm bảo lợi ích chung.

Rủi ro trong hoạt động ngân hàng có tính lây lan rất lớn.Nếu một ngân hàng có nguy cơ phá sản, khách hàng đồng loạt đến rút tiền, gây tâm lý hoang mang cho khách hàng gửi tiền tại các NHTM khác, khi đó sẽ xảy ra phản ứng dây truyền khách hàng đến rút tiền tại các NHTM khác. Điều này dễ dẫn đến khả năng đổ vỡ mang tính hệ thống mà tất cả các NHTM đều bị ảnh hưởng và tác động đến toàn bộ nền kinh tế.

- Cạnh tranh ngân hàng luôn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài như môi trường kinh doanh, doanh nghiệp, dân cư… Cũng như các doanh nghiệp khác, ngân hàng hoạt động và cạnh tranh nhau trong những môi trường và điều kiện kinh tế nhất định. Hoạt động kinh doanh ngân hàng chịu sự chi phối của pháp luật, các ấn phẩm dịch vụ ngân hàng đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu của những đối tượng khách hàng cụ thể:

+ Khách hàng của Ngân hàng là các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Do vậy hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng như sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng luôn chịu sự tác động của môi trường bên ngoài. Với mỗi môi trường kinh doanh nhất định, điều kiện kinh tế nhất định, khu vực địa lý nhất định, ngân hàng cần có những chính sách cụ thể, phù hợp để đưa ra các sản phẩm, dịch vụ phù hợp đáp ứng nhu cầu của khách hàng, thu hút khách hàng, giành ưu thế trong cạnh tranh.

+ Cùng với quá trình mở cửa, hội nhập của nền kinh tế, sự giao thoa về kinh tế giữa các Quốc gia ngày càng mạnh mẽ. Các ngân hàng tăng cường hợp tác với các ngân hàng nước ngoài cũng như mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng ra thị trường các nước trên thế giới. Lộ trình hội nhập đòi hỏi các NHTM trong nước phải tuân thủ các quy định quốc tế về hoạt động ngân hàng và sự tác động của phía đối tác. Mỗi sự thay đổi của tỷ giá


ngoại tệ, lãi suất của các loại ngoại tệ liên quan, điều kiện kinh tế trên thế giới, chính sách tiền tệ của các nước liên quan… đều ảnh hưởng và tác động đến hoạt động kinh doanh của các NHTM trong nước. Do vậy, trong cạnh tranh, các ngân hàng cũng phải có những chính sách thích hợp để đối phó với những biến động của thị trường tài chính quốc tế.

1.1.2.2. Những công cụ cạnh tranh của NHTM:

NHTM thực chất là một doanh nghiệp, cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại là một tất yếu. Cạnh tranh giữa các NHTM thể hiện ở những khía cạnh như sau:

- Chất lượng sản phẩm dịch vụ: Các sản phẩm dịch vụ, nhất là dịch vụ ngân hàng bán lẻ, ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày một quyết liệt hơn đóng vai trò tích cực hơn trong nền kinh tế.

Cạnh tranh mạnh mẽ nhất là phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ hiện đại và cung cấp cho các doanh nghiệp. Các NHTM đầu tư cho hiện đại hoá công nghệ, đẩy mạnh tiếp thị, khuyến mại, cạnh tranh mở rộng phát hành và thanh toán các loại thẻ, bao gồm các loại thẻ tín dụng quốc tế, thẻ tín dụng nội địa, thẻ rút tiền mặt, nhất là những người có thu nhập khá, doanh nghiệp có đông lao động… cùng với xu hướng đa dạng dịch vụ mới, các NHTM cạnh tranh mở ra dịch vụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá, lãi suất, giá hàng xuất khẩu, bảo hiểm nhân thọ cho khách hàng…

Công nghệ ngân hàng: Thị trường công nghệ ngân hàng đang hứa hẹn rộng mở và phát triển mạnh trong thời gian tới khi các ngân hàng trong nước đẩy mạnh phát triển các dịch vụ trên nền tảng đổi mới công nghệ, nhằm tăng cường cạnh tranh, chuẩn bị cho hội nhập. Các NHTM đã không ngần ngại đầu tư hàng triệu đôla mua phần mềm của nước ngoài với công nghệ mới, tiên tiến để tăng sức cạnh tranh. Với thế mạnh vượt trội của các loại công nghệ sẽ tăng


khả năng cung cấp dịch vụ tiện ích cao cho khách hàng.

Năng lực tài chính: Năng lực tài chính của NHTM được thể hiện rõ và quan trọng nhất ở quy mô vốn chủ sở hữu hay còn gọi là vốn tự có. Vốn tự có là yếu tố quyết định sức mạnh tài chính của một NHTM, là “tấm nệm chống đỡ rủi ro”. Các NHTM đang chạy đua và tìm mọi cách để tăng vốn chủ sở hữu nhằm phát triển các nguồn vốn huy động khác và bảo vệ các NHTM trước những rủi ro, các chủ nợ (người gửi tiền).

1.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM

1.2.1.Khái niệm về năng lực cạnh tranh của NHTM

Theo quan điểm “Quản trị chiến lược” của Michael Porter thì năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực khác biệt của mình để tạo sản phẩm có chi phí thấp và sự khác biệt của sản phẩm, tức bao gồm cả các yếu tố vô hình. Mỗi doanh nghiệp đều phải xây dựng chiến lược cạnh tranh liên quan tới việc xác định vị trí của công ty để phát huy các năng lực trước các lực lượng cạnh tranh như: đối thủ tiềm năng, đối thủ hiện tại, sản phẩm thay thế, khách hàng và nhà cung cấp.

Theo quan điểm Marketing ngân hàng thì năng lực cạnh tranh liên quan chặt chẽ đến việc tạo ra sản phẩm dịch vụ khác biệt và chỉ rõ lợi thế cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ đó trên thị trường mục tiêu. Nếu tiếp cận theo góc độ của một nhà quản trị ngân hàng, năng lực cạnh tranh cần được hiểu là khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, biểu hiện qua sức mạnh thương hiệu, uy tín của ngân hàng, thị phần của ngân hàng trên thị trường, chiến lược phát triển dài hạn, nguồn nhân lực… có khả năng chống đỡ hiệu quả đối với các biến động bất lợi của thị trường.

NHTM cũng là một doanh nghiệp và là doanh nghiệp đặc biệt, cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là cạnh tranh trong nội bộ ngành. Từ những quan điểm trên, áp dụng đối với các NHTM, các nhà nghiên cứu cho rằng năng lực


cạnh tranh của NHTM là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì, phát triển những lợi thế nhằm cũng cố và mở rộng thị phần; gia tăng lợi nhuận và liên tục tăng đồng thời đảm bảo sự hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh.

1.2.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM

Hoạt động của các NHTM có ổn định và phát triển hay không, có khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác hay không, phụ thuộc vào chính bản thân các nguồn lực nội tại và hiện có của các NHTM như: năng lực tài chính, công nghệ, chất lượng đội ngũ nhân viên…Bên cạnh đó, đặc điểm sản phẩm và đặc điểm khách hàng cũng là nhân tố chi phối đến khả năng cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Cụ thể:

1.2.2.1 Năng lực tài chính

Năng lực tài chính của NHTM được thể hiện qua các yếu tố sau:

- Quy mô vốn chủ sở hữu (Vốn tự có): Vốn chủ sở hữu của NHTM mang tính chất ổn định, nó thường chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng (khoảng dưới 10%) nhưng có một vị trí quan trọng, quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để tiến hành kinh doanh, huy động vốn và cho vay. Người ta ví nó như một cái “đệm” để chống đỡ sự giảm giá trị của những tài sản có của ngân hàng mà có thể đẩy ngân hàng đến tình trạng thiếu khả năng chi trả và phá sản. Vốn chủ sở hữu của NHTM càng lớn thì khả năng chống đỡ những “cú sốc” của môi trường kinh doanh càng cao. Vốn chủ sở hữu còn ảnh hưởng tới khả năng đầu tư vào công nghệ ngân hàng vì ngân hàng chỉ có thể sử dụng vốn chủ sở hữu đầu tư vào công nghệ . Vì vậy quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ sẽ là một bất lợi, đây là một trong những nguồn lực quan trọng nhất quyết định khả năng cạnh tranh của NHTM.

Theo quy định của Ủy ban Basel, vốn tự có của NHTM phải đạt tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với Tổng tài sản “có” rủi ro (CAR = Vốn chủ sở


hữu / Tổng tài sản “có” rủi ro)

- Chất lượng tài sản có và khả năng sinh lời:

+ Chất lượng tài sản có phản ánh “sức khoẻ” của một ngân hàng. Chất lượng tài sản có được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như: Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ; mức độ lập dự phòng và khả năng thu hồi các khoản nợ xấu, rủi ro tín dụng tiềm ẩn.

+ Khả năng sinh lời phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của NHTM, đồng thời cũng phản ánh một phần kết quả cạnh tranh của ngân hàng. Khả năng sinh lời được thể hiện qua chỉ tiêu: Lợi nhuận trước thuế, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, cơ cấu của lợi nhuận (lợi nhuận đựơc hình thành từ nguồn thu hoạt động nào). Khả năng sinh lời được phân tích qua các chỉ tiêu sau:

* ROA tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản

Lợi nhuận ròng

ROA= ------------------- x 100%

Tổng tài sản

ROA càng lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại tốt và cơ cấu tài sản hợp lý.

* ROE tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu:

Lợi nhuận ròng

ROE = ---------------------- x 100%

Vốn tự có

ROE là chỉ tiêu được các nhà ngân hàng quan tâm đến nhiều nhất. Nó cho thấy khả năng sinh lời từ một đồng vốn của chủ. Từ đó cho biết số lợi nhuận ròng mà một cổ đông có được. Do vậy các ngân hàng luôn cố gắng tăng chỉ tiêu ROE để tăng tính hấp dẫn đối với các cổ đông ...Tuy nhiên việc tăng ROE quá cao so với ROA chứng tỏ nguồn vốn tự có của ngân hàng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn, do vậy ảnh hưởng đến mức độ lành

Xem tất cả 139 trang.

Ngày đăng: 09/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí