Uy Tín, Thương Hiệu, Chất Lượng Sản Phẩm Dịch Vụ:


mạnh trong hoạt động của NHTM.

Trong cùng một hệ thống, người ta có thể so sánh bằng hai chỉ tiêu ROA và ROE để thấy được Chi nhánh nào hoạt động hiệu quả hơn đồng thời nó cũng phản ánh sức mạnh về tiềm lực tài chính của ngân hàng – nhân tố quan trọng xây dựng nên năng lực cạnh tranh của ngân hàng.

* Khả năng thanh khoản: là khả năng của Ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán tiền của khách hàng, được tạo lập bởi tính thanh khoản của tài sản và tính thanh khoản của nguồn vốn, Khả năng thanh khoản của NHTM thể hiện qua chỉ tiêu : Tỷ lệ khả năng chi trả (Tài sản có có thể thanh toán ngay trên tài sản nợ phải thanh toán ngay), khả năng thanh toán tức thì, khả năng thanh toán nhanh, đánh giá định tính về năng lực quản lý thanh khoản của các NHTM, đặc biệt là khả năng quản lý rủi ro thanh khoản của các NHTM…

* Thị phần :

Thị phần phản ánh quy mô hoạt động của NHTM trên thị trường và cũng là yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của NHTM. Thị phần của mỗi NHTM trên thị trường phản ánh qua số lượng khách hàng, Dự nợ tín dụng, số lượng nhành nghề mà NHTM đó phục vụ. Thị phần là chỉ tiêu đánh giá mức độ chiếm lĩnh thị trường của NHTM so với đối thủ cạnh tranh.

1.2.2.2 Năng lực công nghệ:

Một trong những yếu tố quan trọng của chất lượng dịch vụ ngân hàng là tính tiện ích, an toàn, nhanh chóng, chính xác. Để thực hiện được điều này thì không có một công cụ nào giúp sức đắc lực hơn là công nghệ thông tin. Tuy nhiên mức độ áp dụng công nghệ thông tin trong mỗi ngân hàng lại khác nhau và phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tài chính của ngân hàng đó. Việc áp dụng công nghệ thông tin tạo nên chất lượng cho sản phẩm trong các dịch vụ là điều kiện then chốt tạo nên lợi thế cạnh tranh trong điều kiện hội nhập hiện


nay của hệ thống ngân hàng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.

Trong lĩnh vực ngân hàng, công nghệ đang ngày càng đóng vai trò như là một trong những nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của mỗi ngân hàng. Vai trò của công nghệ đối với các hoạt động ngân hàng được thể hiện:

- Cho phép lưu trữ và đẩy nhanh tốc độ xử lý các dữ liệu tạo điều kiện cho công tác hạch toán kế toán, lưu trữ và báo cáo.

Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - 4

- Cho phép đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, gia tăng tiện ích sản phẩm dịch vụ và liên kết với các doanh nghiệp khác trong việc bán chéo sản phẩm dịch vụ.

- Cho phép thiết lập hệ thống giao dịch trực tuyến, xóa bỏ giới hạn trong hoạt động ngân hàng về địa giới hành chính, thời gian giao dịch và yêu cầu phải đến địa điểm ngân hàng để thực hiện giao dịch, góp phần quan trọng vào hoạt động thương mại điện tử.

- Cho phép thiết lập hệ thống thông tin quản lý trực tiếp phục vụ hữu hiệu cho công tác quản lý điều hành theo mô hình tập trung, nâng cao khả năng quản lý, kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng.

Công nghệ ngân hàng không chỉ bao gồm những công nghệ mang tính tác nghiệp như hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền tự động ATM… mà còn bao gồm hệ thống thông tin quản lý, hệ thống báo cáo rủi ro…trong nội bộ ngân hàng. Năng lực công nghệ không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng công nghệ hiện tại mà còn bao gồm cả khả năng mở (khả năng đổi mới) của các công nghệ hiện tại về mặt kỹ thuật cũng như kinh tế. Đổi mới công nghệ ngân hàng là tin học hóa hoạt động ngân hàng, tin học hóa các nghiệp vụ ngân hàng, mở rộng dịch vụ ngân hàng hiện đại trên nền công nghệ mới gắn liền với việc thay đổi cơ chế pháp lý phù hợp.


Vì vậy hoàn thiện và phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng phù hợp với yêu cầu của khách hàng và của thị trường đem lại hiệu quả khi dựa trên một nền tảng công nghệ ngân hàng hiện đại và tiên tiến là một yêu cầu tất yếu đối với NHTM. Do vậy, việc lựa chọn đúng công nghệ và sử dụng có hiệu quả công nghệ là một khâu quan trọng nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh và gia tăng hiệu quả kinh doanh của NHTM.

1.2.2.3. Nguồn nhân lực:

- Nguồn nhân lực là nguồn lực không thể thiếu của bất kỳ doanh nghiệp cũng như ngân hàng nào. Nguồn nhân lực của một doanh nghiệp nói chung thể hiện ở những yếu tố số lượng và chất lượng nguồn nhân lực

Năng lực cạnh tranh về nguồn nhân lực của các NHTM phải được xem xét trên cả hai khía cạnh số lượng và chất lượng lao động:

Về số lượng lao động: Để có thể mở rộng mạng lưới nhằm tăng thị phần và phục vụ tốt khách hàng, các NHTM nhất định phải có lực lượng lao động đủ về số lượng. Tuy nhiên cũng cần so sánh chỉ tiêu này trong mối tương quan với hệ thống mạng lưới và hiệu quả kinh doanh để nhìn nhận năng suất lao động của người lao động trong ngân hàng.

Về chất lượng lao động: Thể hiện qua các tiêu chí sau:

Trình độ văn hóa của đội ngũ lao động: bao gồm trình độ học vấn và cac kỹ năng hỗ trợ như ngoại ngữ, tin học, khả năng giao tiếp, thuyết trình, ra quyết định, giải quyết vấn đề… tiêu chí này quan trọng vì nó là nền tảng thể hiện khả năng của người lao động trong ngân hàng có thể học hỏi, nắm bắt công việc để thực hiện các kỹ năng nghiệp vụ.

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng thực hiện nghiệp vụ đối với nhân viên: quyết định đến chất lượng nghiệp vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Đội ngũ nhân viên với kỹ năng nghiệp vụ cao, có khả năng tư vấn cho khách hàng sẽ tạo được lòng tin và ấn tượng tốt của khách hàng với ngân hàng.


1.2.2.4. Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức:

Năng lực quản lý phản ánh năng lực điều hành của Hội đồng quản trị, Ban điều hành ngân hàng. Năng lực quản lý thể hiện ở mức độ chi phối và khả năng giám sát của Hội đồng quản trị đối với Ban điều hành; mục tiêu, động cơ, mức độ cam kết của Ban điều hành, Hội đồng quản trị đối với việc duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh của ngân hàng; chính sách tiền lương và thu nhập đối với Ban điều hành; số lượng, chất lượng và hiệu lực thực hiện của các chiến lược, chính sách và quy trình kinh doanh cũng như quy trình quản lý rủi ro, kiểm toán kiểm soát nội bộ. Năng lực quản lý sẽ quyết định hiệu quả sử dụng các nguồn lực của ngân hàng.

Yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như bất kỳ doanh nghiệp nào chính là năng lực quản trị, kiểm soát, điều hành của những người lãnh đạo. Năng lực đó thể hiện qua việc đảm bảo tính hiệu quả, an toàn trong hoạt động của ngân hàng. Tầm nhìn của nhà lãnh đạo là yếu tố then chốt để ngân hàng có chiến lược kinh doanh đúng đắn trong dài hạn. Ngân hàng hoạt động hiệu quả, có sự tăng trưởng theo thời gian, khả năng thanh khoản được đảm bảo và khả năng vượt qua những khó khăn là bằng chứng cho khả năng quản trị điều hành tốt.

+ Năng lực quản lý của Hội đồng quản trị cũng như Ban điều hành cũng bị chi phối bởi cơ cấu tổ chức của ngân hàng.

Cơ cấu tổ chức phản ánh cơ chế phân bổ các nguồn lực của một ngân hàng có phù hợp với quy mô, trình độ quản lý của ngân hàng; phù hợp với đặc trưng cạnh tranh của ngành và yêu cầu của thị trường hay không. Cơ cấu tổ chức của một ngân hàng thể hiện ở sự phân chia các phòng ban chức năng, các bộ phận tác nghiệp, các đơn vị trực thuộc… Hiệu quả của cơ chế quản lý phản ánh ở số lượng các phòng ban, sự phân công, phân cấp giữa các phòng ban, mức độ phối hợp giữa các phòng ban, các đơn vị trong việc triển khai


chiến lược kinh doanh, các hoạt động nghiệp vụ hàng ngày, khả năng thích nghi và thay đổi của cơ cấu trước những biến động của ngành hay những biến động trong môi trường vĩ mô.

1.2.2.5. Mức độ đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ và phát triển mạng lưới

Sản phẩm dịch vụ ngân hàng phản ánh khả năng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, bao gồm các sản phẩm dịch vụ như: Sản phẩm dịch vụ bán lẻ; sản phẩm-dịch vụ ngân hàng phục vụ khách hàng doanh nghiệp… Trong điều kiện hội nhập quốc tế, chất lượng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đòi hỏi ngày càng cao.

Mức độ đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp cũng là một yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh của một ngân hàng. Một ngân hàng có nhiều loại hình dịch vụ cung cấp phù hợp với nhu cầu thị trường sẽ là một ngân hàng có lợi thế cạnh tranh. Sự đa dạng hoá các dịch vụ một mặt tạo cho ngân hàng phát triển ổn định hơn, mặt khác cho phép ngân hàng phát huy lợi thế nhờ quy mô. Tất nhiên, sự đa dạng hoá các dịch vụ cần phải được thực hiện trong sự tương quan so với các nguồn lực hiện có của ngân hàng. Nếu không, việc triển khai quá nhiều dịch vụ có thể khiến ngân hàng kinh doanh không hiệu quả do dàn trải quá mức các nguồn lực.

- Đa dạng, chất lượng và giá cả sản phẩm dịnh vụ ngân hàng luôn được sử dụng như một công cụ cạnh tranh hữu hiệu của các NHTM. Từ đó hình thành nên nền tảng, phát triển vững chắc, đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Thực tế cũng đã chỉ ra rằng, ngoài sự đa dạng về sản phẩm thì việc duy trì chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng cao có thể tạo ra lợi nhuận, giảm chi phí và tăng thị phần.

- Hệ thống mạng lưới phản ánh phạm vi địa bàn hoạt động của NHTM và khả năng đáp ứng các dịch vụ ngân hàng tại các điểm giao dịch của NHTM.

- Hệ thống kênh phân phối thể hiện ở số lượng các chi nhánh, các đơn vị trực thuộc khác và sự phân bố các chi nhánh trên lãnh thổ.


- Công nghệ ngân hàng hiện đại đang làm rút ngắn khoảng cách về không gian và làm giảm tác động của một mạng lưới chi nhánh rộng khắp đối với lợi thế cạnh tranh của ngân hàng. Tuy nhiên, vai trò của một mạng lưới chi nhánh rộng lớn vẫn rất có ý nghĩa khi mà các dịch vụ truyền thống của ngân hàng vẫn còn phát triển. Đi kèm với một mạng lưới chi nhánh rộng phải là hiệu quả hoạt động của mạng lưới, thể hiện thông qua tính hợp lý trong phân bố chi nhánh ở các vùng, miền cũng như vấn đề quản lý, giám sát hoạt động của các chi nhánh. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của ngân hàng trong lĩnh vực này bao gồm

- Số lượng dịch vụ mới được cung ứng

- Mở rộng mạng lưới chi nhánh

- Sự thay đổi trong quá trình cung ứng dịch vụ

1.2.2.6 Chiến lược kinh doanh

Chiến lược kinh doanh: trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, các NHTM phải quản lý ngân hàng theo tư duy chiến lược để ban lãnh đạo ngân hàng luôn ở thế chủ động, không lúng túng trước những thay đổi của môi trường. Đồng thời kết hợp hài hòa và phát huy tối đa sức mạnh của tất cả các nguồn lực, sử dụng các nguồn lực ngân hàng một cách hiệu quả nhất, góp phần tăng chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Chiến lược kinh doanh thường được xây dựng cụ thể cho từng năm, từng kỳ cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế của NHTM và phù hợp với mục tiêu phấn đấu của mỗi NHTM.

1.2.2.7. Quản trị rủi ro ngân hàng

Quản trị rủi ro ngân hàng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hoạt động hiệu quả của Ngân hàng. Mỗi ngân hàng cần phải kiểm soát mức rủi ro có thể chấp nhận được trong các hoạt động kinh doanh và cần thường xuyên đánh giá các rủi ro để quyết định những rủi ro nào mình có khả năng kiểm soát, những rủi ro nào có thể vượt tầm kiểm soát. Đối với những rủi ro có thể kiểm soát được như rủi ro trong công tác tín dụng, rủi ro trong công tác huy động vốn, rủi ro trong tác nghiệp…NHTM thường xuyến đánh


giá để quyết định xem có thể chấp nhận được rủi ro này hay không. Đối với rủi ro không kiểm soát được như rủi ro thị trường, rủi ro do thay đổi chính sách vĩ mô… NHTM phải quyết định chấp nhận rủi ro đó hoặc không tham gia, hoặc giảm mức độ tham gia vào hoạt động kinh doanh có rủi ro đó. Như vậy thông qua việc tăng cường năng lực quản trị rủi ro, ngân hàng sẽ đảm bảo hoạt động kinh doanh của mình được an toàn và phát triển bền vững, từ đó nâng cao được năng lực cạnh trạnh của Ngân hàng.

1.2.2.8. Uy tín, thương hiệu, chất lượng sản phẩm dịch vụ:

Uy tín và thương hiệu của Ngân hàng là những dấu hiệu đặc biệt để nhận biết một sản phẩm dịch vụ nào đó được cung cấp bởi một NHTM. Thương hiệu là một loại tài sản của NHTM, thường được cấu thành từ một cái tên, hay các chữ, các cụm từ, một logo, một biểu tượng , một hình ảnh hay sự kết hợp của các yếu tố trên. Uy tín và thương hiệu được thể hiện qua sự tín nhiệm, yêu thích, hài lòng về sản phẩm, dịch vụ của NHTM cung cấp cho khách hàng. Một ngân hàng có thương hiệu khi được nhiều khách hàng thừa nhận và đánh giá cao về chất lượng dịch vụ và sử dụng sản phẩm dịch vụ NHTM đó cung cấp.

Các ngân hàng đều kinh doanh sản phẩm, dịch vụ như nhau nhưng có đặc trưng riêng, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, gia tăng tiện ích sản phẩm, càng nhiều chương trình khuyến mại là thu hút được đông đảo khách hàng, chất lượng phục vụ của nhân viên ngân hàng, tác phong phục vụ chuyên nghiệp, nhanh chóng chính xác giúp khách hàng hài lòng về sản phẩm họ đang sử dụng

1.3 Các phương pháp phân tích năng lực cạnh tranh

1.3.1. Phương pháp phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của NH

- Phương pháp phân tích theo cấu trúc thị trường

Theo quan điểm này, năng lực cạnh tranh của NH được xem xét theo 5 yếu tố của môi trường kinh tế vi mô theo mô hình cạnh tranh của Porter đó là:


các đối thủ cạnh tranh, các sản phẩm, dịch vụ thay thế; các cá nhân tổ chức gửi tiền, sử dụng dịch vụ của NH; các khách hàng; các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn.

Ở đây ta chỉ xét môi trường kinh doanh ở tầm kinh tế vi mô ảnh hưởng như thế nào đến năng lực cạnh tranh của NH và loại bỏ ảnh hưởng của môi trường vĩ mô cũng như những nỗ lực kinh doanh của bản thân NH. Như thế quan điểm phân tích năng lực theo cấu trúc thị trường sẽ chỉ đưa ra một bức tranh hẹp về môi trường kinh doanh của NH. Trong môi trường đó, việc NH phân tích năng lực cạnh tranh của mình đến mức độ nào hoàn toàn phụ thuộc vào việc NH tìm cách thích nghi với môi trường vi mô ra sao, các yếu tố còn lại hoàn toàn thuận lợi cho NH. Nếu theo quan điểm này chúng ta sẽ có cái nhìn phiến diện và có thể đánh giá sai năng lực cạnh tranh thực sự của NH.

- Phương pháp phân tích theo quan điểm tổng thể

Phân tích theo quan điểm tổng thể yêu cầu giải đáp 3 vấn đề cơ bản khi nghiên cứu năng lực cạnh tranh của một NH. Đó là: năng lực cạnh tranh của NH, những nhân tố thúc đẩy hay có đóng góp tích cực và những nhân tố hạn chế hay cản trở cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của NH, những tiêu chí đặt ra cho chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh của NH, những chính sách, công trình và công cụ của chính phủ để đáp ứng tiêu chí đó.Quá trình điều chỉnh của NH và thay đổi cơ cấu ngành diễn ra song song với những biến đổi của môi trường cạnh tranh kinh tế chung. Năng lực cạnh tranh của NH phụ thuộc vào các yếu tố do NH tự quyết định nhưng cũng còn phụ thuộc vào những nhân tố do Chính phủ và NHNN quyết định.

Quan điểm tổng thể phân tích năng lực cạnh tranh của NH trong trái thái động. Theo quan điểm này, năng lực cạnh tranh của NH được phân tích trong mối quan hệ hữu cơ với môi trường mà NH đang hoạt động và nó chịu sự tác động của các yếu tố từ môi trường kinh doanh bên trong và bên ngoài ngân hàng. Môi trường bên trong NH chính là các yếu tố nội lực của NH, có

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/05/2023