Theo Công ty tài chính IFC [12] quản trị công ty là những cơ cấu và những quá trình để định hướng kiểm soát và giám sát công ty hoặc quản lý hoặc hành vi quản lý.
Quản trị công ty được xem xét với ngụ ý rộng hơn, quan trọng đối với phát triển kinh tế, phúc lợi xã hội, ổn định và công bằng xã hội. Học giả Carbury [68] quan tâm tới việc duy trì sự cân bằng giữa mục tiêu kinh tế và xã hội và giữa mục tiêu cá nhân và cộng đồng trong quản trị công ty. Thêm vào đó, học giả còn chỉ ra rằng khuân khổ quản trị là để khuyến khích việc sử dụng hiệu quả nguồn lực và yêu cầu trách nhiệm giải trình đối với nhà quản lý của những nguồn lực đó; mục tiêu là để cân bằng tốt nhất lợi ích của cá nhân, tổ chức và xã hội, phát triển nền kinh tế và hạn chế gian lận và quản lý yếu kém.
Rezaee [84] định nghĩ quản trị công ty như một quá trình trong đó các cổ đông điều khiển nhà quản lý để hành động vì lợi ích của họ, tăng mức độ tự tin cần thiết cho thị trường vốn để nó có thể hoạt động một cách có hiệu quả.
Ủy ban Basel về giám sát hoạt động ngân hàng [63] đã đưa ra các nguyên tắc quản trị NHTM, trong đó tập trung vào hội đồng quản trị, quản lý rủi ro, mức lương hợp lý, sự đơn giản hóa hệ thống và sự trong sạch của ngân hàng. Những nguyên tắc này dựa trên những nguyên tắc quản trị công ty của OECD.
Theo Macey và O’hara [79] lại cho rằng khi tiếp cận quản trị công ty ở các NHTM phải xem xét nó như một cơ chế bao gồm cả cơ chế quản trị bên trong (internal governance) và cơ chế quản trị bên ngoài (external governance). Cơ chế quản trị bên trong bao gồm cổ đông và người gửi tiền. Cơ chế quản trị bên ngoài gồm kỷ luật thị trường và hệ thống giám sát. Với cách tiếp cận này tác giả cho thấy trong khi yếu tố kỷ luật thị trường ít được đề cập đến thì vai trò của hệ thống giám sát lại được quan tâm nhiều hơn, theo đó sự quản lý của Chính phủ được coi là yếu tố quyết định trong việc hạn chế khả năng của các nhà quản lý NHTM tham gia vào các hành vi có yếu tố ảnh hưởng bất lợi đến người gửi tiền.
1.1.2. Về bản chất của quản trị ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Công trình trong nước
Theo Viên Thế Giang, Khoa Luật – Trường Đại học Kinh tế Tp. HCM; Bùi Hữu Toàn, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Nguyễn Trung Kiên, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế [58] thì bản chất của quản trị NHTM được thể hiện ở việc thiết lập cơ chế, quy trình để giám sát việc thực thi trách nhiệm của người quản lý, điều hành nhằm để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của ngân hàng và của cổ đông; là cơ sở cho việc thực thi các quyền của cổ đông. Khác so với mô hình công ty cổ phần khác, nhà đầu tư khi mua cổ phiếu của NHTM bị giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần; quản trị NHTM bảo đảm tính minh bạch của các thông tin tài chính, kinh doanh và quá trình giám sát nội bộ đối với hoạt động quản lý, điều hành.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao hiệu quả quản trị Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế - 1
- Nâng cao hiệu quả quản trị Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế - 2
- Phương Pháp Tiếp Cận Và Phương Pháp Nghiên Cứu
- Tổng Quan Về Đánh Giá Hiệu Quả Quản Trị Ngân Hàng Thương Mại
- Những Vấn Đề Chưa Được Nghiên Cứu Hoặc Mới Được Nghiên Cứu Sơ Bộ Luận Án Cần Đi Sâu Nghiên Cứu
- Quan Hệ Giữa Đổi Mới Quản Trị Và Hiệu Quả Kinh Doanh Của Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.
Học giả Nguyễn Duy Gia [7] cho rằng bản chất của hoạt động quản trị là công việc tiến hành phân công lao động xã hội một cách tự giác, có tổ chức và có hệ thống đồng thời theo cả hai hướng chuyên môn hóa và hợp tác hóa các quá trình sản xuất- kinh doanh ở các thời kỳ nhằm đạt hiệu quả quản trị cao nhất đối với các hoạt động đó.
Hà Văn Hội [9], Trịnh Thị Ý Nhi [8] nhấn mạnh bản chất của quản trị phải bao gồm hai yêu tố: Thứ nhất, quản trị phải có chủ thể quản trị là tác nhân tạo ra tác động quản trị và một đối tượng quản trị tiếp. Đối tượng bị quản trị phải tiếp nhận sự tác động đó. Tác động có thể chỉ một lần và cũng có thể nhiều lần. Thứ hai, quản trị phải có mục tiêu đặt ra cho cả chủ thể và đối tượng, nó tạo ra các tác động. Sự tác động của chủ thể quản trị lên đối tượng quản trị được thực hiện trong một môi trường luôn luôn biến động.
Học giả Nguyễn Văn Hùng [39] chú trọng đến hiệu quả cuối cùng do hoạt động quản trị mang lại, từ đó bản chất quả quản trị nói chung và quản trị NHTM nói riêng là tạo ra giá trị thặng dư. Đồng thời, học giả cũng khẳng định quản trị giúp tìm ra phương thức phù hợp để công việc hiệu quả cao nhất, chi phí ít nhất.
1.1.2.2. Công trình nước ngoài
Theo lý thuyết hành vi của Mary Parker Follet [1] thì bản chất của quản trị ngân hàng được tạo ra với mục đích cuối cùng là ra các quyết định đúng đắn để vận hành công ty thông qua việc xây dựng một cơ chế phân định rõ quyền và trách nhiệm của mỗi thành phần liên quan đến ngân hàng. Việc nhìn nhận rõ nghĩa vụ và quyền lợi của mình sẽ giúp các bên liên quan đưa ra các quyết định đúng đắn vì lợi ích chung. Hơn nữa, một khía cạnh quan trọng về bản chất của hoạt động quản trị NHTM đó là giảm thiểu rủi ro cho NHTM. Việc thực thi hoạt động quản trị bên cạnh việc xác định vai trò của mỗi thành viên sẽ gắn trách nhiệm của họ với từng hoạt động.
H.Kent Baker, Ronald Anderson [74] nêu lên bản chất của quản trị công ty nói chung và quản trị NHTM nói riêng không chỉ là nền tảng cho sự phát triển bền vững, nâng cao năng suất, gia tăng giá trị kinh tế của các công ty mà còn là vấn đề cốt lõi cho việc duy trì tăng trưởng ổn định và giảm thiểu rủi ro đối với nền kinh tế.
Theo Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng [11, 105] thì bản chất của quản trị ngân hàng chính là việc đưa ra các nguyên tắc về quản trị nhằm đảm bảo rằng các ngân hàng hoạt động hiệu quả, thuận lợi trong quá trình theo đuổi mục tiêu lâu dài của ngân hàng, từ đó giúp duy trì lòng tin của công chúng và vị thế của ngân hàng trong hệ thống.
1.1.3. Về vai trò của quản trị ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Công trình trong nước
Nguyễn Thị Kim Cúc [55] xác định vai trò của quản trị NHTM được thể hiện ở 5 khía cạnh sau: cơ chế công khai, minh bạch thông tin, NHTM có hoạt động quản trị hiệu quả sẽ được các chủ thể tham gia thị trường tin tưởng, tín nhiệm. Với một cơ chế phân định trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng, đảm bảo tính độc lập về chức năng nhiệm vụ, chế độ đãi ngộ phù hợp vừa tạo động lực để HĐQT và BĐH làm việc tận tâm, vừa tăng cường tính tuân thủ, giảm thiểu sai phạm, gian lận trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Từ đó, các hoạt động quản lý được tăng cường và nâng cao hiệu quả, đảm bảo mục tiêu được xác định.
Trần Thị Thanh Tú và Phạm Bảo Khánh [51] cho rằng vai trò của quản trị NHTM được nhìn nhận ở ba góc độ đó là vai trò đối với chính NHTM, với người gửi tiền và với sự ổn định và an toàn tài chính của NHTM. Ngoài ra quản trị NHTM tốt sẽ đảm bảo được quyền và lợi ích của các cổ đông. Một khi quyền lợi và lợi ích được đảm bảo, các cổ đông sẽ không có xu hướng từ bỏ cổ phần của mình trong NHTM.
Một cách thể hiện khác về vai trò của quản trị NHTM trong nghiên cứu của Trần Thị Thanh Tú, Nguyễn Hồng Sơn và Trịnh Thị Hoa Mai[33] đã chỉ ra mối liên hệ giữa quản trị công ty và tình hình hoạt động của các NHTM tại Việt Nam rằng quản trị công ty có tác động tích cực đến tình hình hoạt động của ngân hàng thông qua đo lường các chỉ số ROA – Tỷ suất sinh lời của tài sản và ROE – Tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu.
Ủy ban Basel về giám sát hoạt động ngân hàng [11] đánh giá cao vai trò của quản trị NHTM khi đặt quản trị NHTM là yếu tố then chốt trong việc đảm bảo quản lý rủi ro và duy trì hiệu quả hoạt động đối với các ngân hàng. Theo lẽ đó, vai trò và tác động của quản trị ngân hàng đến hiệu quả hoạt động ngân hàng và rủi ro hệ thống luôn là mối quan tâm không chỉ đối với bản thân NHTM mà còn đối với cơ quan quản lý, giám sát ngân hàng và các bên liên quan khác như nhà đầu tư, người gửi tiền và công chúng.
Ủy ban an toàn quốc gia và IFC [48], Chu Tuấn Linh [2] thể hiện vai trò của quản trị công ty nói chung và NHTM nói riêng trong việc tạo niềm tin của thị trường và đạo đức kinh doanh, quản trị tốt là nền tảng để các NHTM cạnh tranh thu hút vốn, hơn thế nữa quản trị ngân hàng hiệu quả có tác động đối với nền kinh tế quốc gia vì sẽ giúp cho các NHTM tăng trưởng theo xu hướng phát triển bền vững, dẫn tới tăng trưởng chung, thúc đẩy sự ổn định và nhờ đó giảm nhẹ rủi ro đối với nền kinh tế.
Học giả Nguyễn Ngọc Cường [36] cho rằng vai trò của quản trị NHTM thể hiện ở ba khía cạnh: thứ nhất là vai trò của quản trị đối với bản thân NHTM sẽ đảm bảo sự ổn định và an toàn tài chính cho NHTM; quản trị ngân hàng tốt sẽ nâng cao khả năng thu hút nguồn vốn và góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng; thứ hai là vai trò của quản trị ngân hàng đối với lợi ích kinh tế của người gửi
tiền, cổ đông, nhà đầu tư; thứ ba là vai trò của quản trị ngân hàng đối với nền kinh tế khi sự minh bạch trong báo cáo tài chính của các ngân hàng sẽ giúp Chính phủ thu đúng, thu đủ số tiền thuế mà NHTM phải đóng góp cho ngân sách, đồng thời một ngân hàng hoạt động hiệu quả, ổn định, bền vững sẽ là công cụ đắc lực của Chính phủ trong công tác điều tiết nền kinh tế giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia.
1.1.3.2. Công trình nước ngoài
Theo IFC [75] quản trị công ty có vai trò quan trọng ở nhiều cấp độ. Ở cấp độ công ty, những công ty thực hiện tốt việc quản trị công ty thường có khả năng tiếp cận nguồn vốn rẻ và đạt được hiệu quả kinh doanh cao hơn so với những công ty khác. Những công ty kiên trì theo đuổi các tiêu chuẩn cao trong quản trị công ty sẽ giảm thiểu được nhiều rủi ro, thu hút được các nhà đầu tư. Hơn thế nữa, những công ty có quản trị tốt sẽ đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế quốc dân và cho xã hội.
Bài viết “The roles of corporate governance in bank failures during the recent financial crisis” (tạm dịch là Vai trò của quản trị công ty trong sự sụp đổ của các ngân hàng trong các cuộc khủng hoảng tài chính gần đây) của học giả Berger Allen N [64] tập trung phân tích sự quản trị công ty yếu kém tại một số ngân hàng đã bị phá sản sau khi cơn khủng hoảng đi qua.
Học giả H. Kent Baker và Ronald Anderson [73] khẳng định rằng quản trị công ty nói chung và quản trị NHTM nói riêng không chỉ là nền tảng cho sự phát triển bền vững, nâng cao năng suất, gia tăng giá trị kinh tế của các tổ chức kinh tế cũng như NHTM mà còn là vấn đề cốt lõi cho việc duy trì tăng trưởng ổn định và giảm thiểu rủi ro đối với nền kinh tế. Theo lẽ đó, các học giả nhấn mạnh vai trò của quản trị ngân hàng đặc biệt quan trọng trọng việc tạo ra một khu vực ngân hàng năng động, lành mạnh, hỗ trợ sự phát triển bền vững của khu vực tài chính và khu vực tư nhân. Quản trị ngân hàng kém hiệu quả sẽ không tạo ra động lực để quản lý rủi ro phù hợp và cso thể dẫn tới khủng hoảng nghiêm trọng từng ngân hàng (cấp độ vi mô) đến khủng hoảng hệ thống ngân hàng (cấp độ vĩ mô).
Tón lại, vấn đề quan niệm về quản trị NHTM được nhiều học giả đề cập và nhìn chung các học giả tương đối thống nhất rằng quản trị NHTM được nhận biết
theo quản trị công ty. Đồng thời, họ đề cập tương đối rõ vai trò của quản trị NHTM và có một số điểm rất có ý nghĩa cho việc tham khảo của luận án.
1.2. Tổng quan về hiệu quả quản trị và đánh giá hiệu quả quản trị ngân hàng thương mại
1.2.1. Tổng quan về hiệu quả quản trị ngân hàng thương mại
1.2.1.1.Công trình trong nước
Theo Bách thư toàn khoa [1] thì hiệu quả là khả năng tạo ra kết quả mong muốn, hiệu quả là sự phù hợp giữa kết quả thực so với kết quả dự kiến. Như vậy hiệu quả trong hoạt động quản trị của NHTM cũng cần phải được hiểu từ các khía cạnh, góc nhìn khác nhau.
− Đứng trên góc độ của NHTM: Hiệu quả quản trị là việc sử dụng và kết hợp tối ưu các nguồn lực như nhân lực, tài lực, vật lực để tạo ra lợi nhuận cho NHTM, an toàn cho các hoạt động và hạn chế rủi ro, nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM.
− Đứng trên góc độ của khách hàng: hiệu quả quản trị NHTM là sự phù hợp giữa nhu cầu, mong muốn và khả năng đáp ứng của ngân hàng về sản phẩm, dịch vụ mang lại; cụ thể như thủ tục gọn nhẹ, đơn giản, nhanh chóng, kỳ hạn và lãi suất phù hợp với quy mô cũng như phạm vi kinh doanh của khách hàng, linh hoạt, tiện lợi và sẵn sàng hỗ trợ…
− Đứng trên góc độ kinh tế - chính trị - xã hội: Hiệu quả quản trị NHTM là yêu cầu, là thách thức và là yếu tố tiên quyết giúp NHTM hoạt động có hiệu quả kinh doanh và giành thắng lợi trong cạnh tranh. Hơn nữa, đứng trên góc độ vĩ mô, hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng của NHTM giúp làm tăng thu ngân sách Nhà nước, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của người dân và tái phân phối lợi tức xã hội.
Theo học giả Lê Thị Bích Ngọc [15], hoạt động quản trị NHTM liên quan đến cả hai cấp độ vi mô (các ngân hàng đơn lẻ) và vĩ mô (sự ổn định hệ thống tài chính), bởi vì nó cung cấp động lực để kiểm soát ngân hàng, hiệu quả hóa việc kiểm soát và khuyến khích niềm tin của thị trường. Trong thực tiễn hoạt động quản trị NHTM chịu sự can thiệp, tác động trực tiếp từ phía cơ quan giám sát ngân hàng - cơ quan có nhiệm
vụ đánh giá lĩnh vực quản trị ngân hàng, bao gồm cả trình độ và đạo đức của các nhà quản lý cấp cao (Hội đồng quản trị, ban giám đốc) và cơ quan này phải có đủ quyền lực để can thiệp khi quản trị ngân hàng bất ổn. Do đó, hiệu quả quản trị NHTM cần phải hướng tới mục tiêu tăng cường sự ổn định của thị trường tài chính thay vì tối đa hóa lợi nhuận của cổ đông. Khi tiếp cận quản trị ngân hàng theo hướng này, cả cộng đồng cũng như cổ đông ngân hàng đều có lợi.
Học giả Lê Hoàng Nga [13] cho rằng hiệu quả quản trị của NHTM gồm hai khía cạnh đó là hiệu quả kinh tế cho chính bản thân ngân hàng và hiệu quả xã hội. Một bên hiệu quả kinh tế của bản thân ngân hàng được phản ảnh qua giá trị lợi ích kinh tế NHTM đạt được sau một thời gian hoạt động, lợi ích kinh tế đó có thể để phản ánh qua một số các chỉ tiêu định lượng như lợi nhuận, năng suất lao động, thị phần… hoặc một số các chỉ tiêu định tính như uy tín của NHTM, chất lượng sản phẩm, dịch vụ… Mặt khác, hiệu quả xã hội thể hiện NHTM đạt được các mục tiêu xã hội nhất định qua việc sử dụng các nguồn lực của mình. Hiệu quả xã hội thường được phản ánh qua các chỉ tiêu như tăng thu ngân sách Nhà nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tái phân phối lợi tức của xã hội hoặc trình độ văn hóa, mức sống, vệ sinh môi trường… Lúc đó hiệu quả quản trị NHTM đem lại hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng và quyết định tới hiệu quả phát triển kinh tế, xã hội. Khi NHTM đạt được mục tiêu hiệu quả kinh tế sẽ có nhiều khả năng giải quyết các vấn đề xã hội, ngược lại khi đạt được hiệu quả xã hội NHTM sẽ có một môi trường tốt, tạo tiền đề thúc đẩy ngân hàng đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn.
1.2.1.2.Công trình nước ngoài
Với quan điểm hiệu quả quản trị NHTM được nhìn nhận qua hiệu quả kinh doanh thì học giả Peter Rose [81] nhấn mạnh NHTM là một tổ chức kinh doanh hoạt động với mục tiêu chủ yếu là tối đa hóa lợi nhuận với mức độ rủi ro cho phép, thế nên khả năng sinh lời vẫn là mục tiêu mà các ngân hàng quan tâm hơn cả hay nói cách khác, lợi nhuận là yếu tố then chốt để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Tiếp cận theo lợi ích của những người có liên quan đến hoạt động ngân hàng, học giả Smallman [83] cho rằng hiệu quả quản trị của NHTM bao gồm các thành tựu của ngân hàng trong việc hoàn thành các lợi ích của những người liên quan khác nhau như chủ sở hữu (cổ đông), người lao động, khách hàng, xã hội và chính phủ.
Theo Cơ quan cao ủy nhân quyền Liên hợp quốc [1] nhận định hiệu quả quản trị NHTM liên quan đến các tiến trình và kết quả cần thiết để đạt mục tiêu phát triển.
Theo ADB [1] cho rằng hiệu quả quản trị NHTM thể hiện qua bốn yếu tố cơ bản đó là trách nhiệm giải trình, sự tham gia, tính chất có thể dự đoán và sự minh bạch.
Theo OECD [43], hiệu quả quản trị NHTM được xem xét dựa trên mức độ ứng dụng bộ khung “Các nguyên tắc quản trị của OECD”. Theo đó, bộ nguyên tắc gồm 14 nguyên tắc (chi tiết tại Phụ lục số 1 ) bao quát sáu lĩnh vực sau (i) Đảm bảo cơ sở cho một khuân khổ quản trị công ty hiệu quả; (ii) Quyền cổ đông và các chức năng sở hữu chính; (iii) Đối xử bình đẳng đối với cổ đông; (iv) Vai trò của các bên có quyền lợi liên quan; (v) Công bố thông tin và tính minh bạch; (vi) Trách nhiệm của HĐQT. Đứng trên quan điểm của các bên có quyền lợi liên quan trong quản trị NHTM, OECD thể hiện thêm rằng hiệu quả quản trị ngân hàng biểu hiện sự công nhận quyền của các bên có quyền lợi liên quan đã được pháp luật hay quan hệ hợp đồng quy định và khuyến khích sự hợp tác tích cực giữa ngân hàng và các bên có quyền lợi liên quan trong việc tạo dựng tài sản, việc làm và ổn định tài chính. Hay nói một cách khác, hiệu quả quản trị NHTM là tìm cách khuyến khích các bên có quyền lợi liên quan thực hiện đầu tư kinh tế tối ưu vào nguồn nhân lực và tài sản của ngân hàng.
Theo Bộ các nguyên tắc tăng cường quản trị công ty đối với các tổ chức ngân hàng của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng [62] cho rằng hiệu quả quản trị NHTM tập trung vào những vấn đề cốt yếu của hoạt động quản trị bao gồm nghĩa vụ ngân hàng với cổ đông, khách hàng gửi tiền và các bên quyền lợi có liên quan. Hiệu quả quản trị NHTM được thể hiện ở việc thực hiện các nguyên tắc quản trị nhằm thúc đẩy tính minh bạch và hiệu quả của thị trường, phù hợp với quy định của pháp luật, phân