hệ thống có thể xảy ra.
1.1.3. Nội dung quản trị tài sản Nợ, tài sản Có của ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Quản trị cấu trúc bảng Cân đối kế toán của ngân hàng
Quản trị cấu trúc bảng Cân đối kế toán nhằm gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Trên cơ sở dự báo sự biến động của các nhân tố thị trường và chiến lược kinh doanh của ngân hàng, bộ phận ALM xây dựng cấu trúc bảng Cân đối kế toán cần đảm bảo phù hợp về kì hạn, loại tiền giữa TSC và TSN; đảm bảo sự phù hợp giữa tài sản sinh lời và tài sản cho mục đích thanh khoản, đạt được sự hài hòa giữa mục đích lợi nhuận và sự an toàn cũng như đảm bảo sự hợp lí về tính ổn định và chi phí của các nguồn vốn.
Cụ thể quản trị cấu trúc bảng Cân đối kế toán gồm những nội dung sau:
a. Quản trị cơ c u TSC
Quản trị cơ cấu TSC là việc quản lí danh mục sử dụng vốn của ngân hàng nhằm tạo ra một cơ cấu tài sản có thích hợp đảm bảo đáp ứng được nhu cầu về tính thanh khoản, khả năng sinh lời và an toàn.
Các khoản mục trong tổng TSC với bất kì sự thay đổi nào về tỉ trọng đều ảnh hưởng đến khả năng thanh toán, mức độ an toàn. Nếu NH có kết cấu TSC tối ưu thì sẽ không chỉ tối đa hoá được lợi nhuận mà còn giảm thiểu được rủi ro trong sử dụng vốn của mình.
Việc quyết định cơ cấu TSC như thế nào cần dựa trên các nguyên tắc sau:
- Đa dạng hóa các khoản mục TSC để phân tán rủi ro.
- Giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa thanh khoản và khả năng sinh lời trong một khoản mục TSC.
- Đảm bảo được sự chuyển hóa một cách linh hoạt về mặt giá trị giữa các danh mục của TSC nhằm giúp cho ngân hàng luôn có được một danh mục TSC phù hợp với những biến động của môi trường kinh doanh.
- Đảm bảo cân đối, phù hợp với cơ cấu TSN về cấu trúc kì hạn và về loại tiền.
b. Quản trị cơ c u TSN
Chiếm phần lớn trong TSN của ngân hàng là vốn huy động, do vậy, quản trị cơ cấu TSN được tập trung vào quản trị cơ cấu vốn huy động của ngân hàng.
Quản trị cơ cấu vốn huy động nhằm mục tiêu là đưa ra và thực hiện các biện pháp để thay đổi cơ cấu vốn huy động một cách có hiệu quả nhất, sao cho nguồn vốn của ngân hàng có tính ổn định cao và chi phí thấp nhất. Để đạt được mục tiêu này thì ngân hàng cần thực hiện những nội dung sau:
- Thống kê đầy đủ, kịp thời các thay đổi về các loại vốn huy động, tốc độ quay vòng của mỗi loại, căn cứ vào đó các nhà quản trị sẽ thấy được mối liên hệ giữa số lượng, cấu trúc nguồn với các nhân tố ảnh hưởng và đặc tính thị trường nguồn vốn của NH.
- Phân tích kỹ lưỡng các nhân tố gắn liền với thay đổi trên (các nhân tố ảnh hưởng và bị ảnh hưởng), đây là cơ sở để NH đưa ra các quyết định phù hợp để thay đổi qui mô và kết cấu nguồn tiền cũng như phân chia các loại khách hàng gắn với qui mô và tốc độ gia tăng của mỗi nguồn.
- Lập kế hoạch nguồn cho t ng giai đoạn phù hợp với yêu cầu sử dụng, bao gồm kế hoạch gia tăng qui mô của mỗi nguồn nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư hoặc nhu cầu chi trả cho các doanh nghiệp và dân chúng, khả năng thay đổi cơ cấu nguồn hoặc tìm kiếm nguồn mới. Do đó, kế hoạch nguồn cần được đặt trong kế hoạch sử dụng và lợi nhuận kì vọng, bao gồm kế hoạch về lãi suất, mở chi nhánh hoặc điểm huy động, loại nguồn, tiếp thị…
c. Quản trị tương quan giữa tài sản Có và tài sản Nợ
Tương quan giữa tài sản Có và tài sản Nợ thể hiện ở sự tương quan về giá trị và cơ cấu tài sản, vốn huy động của ngân hàng trong hoạt động kinh doanh. Để đảm bảo mục tiêu lợi nhuận và tránh rủi ro, các ngân hàng cần kết hợp hài hòa các nguồn vốn có được với việc sử dụng các nguồn vốn đó. ALM cần thực hiện cân đối vốn
định kì theo những khoảng thời gian ngắn hay dài phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động, môi trường kinh doanh và cơ chế điều hành của ngân hàng.
Thông thường các ngân hàng lập bảng cân đối theo tháng hoặc theo quý nhằm đánh giá tính hợp lí trong cân đối vốn của toàn hệ thống thời kì đó, t đó có các biện pháp chỉ đạo các chi nhánh. Tại các chi nhánh trực thuộc thì cân đối vốn được thực hiện theo ngày làm việc vì các chi nhánh phải tiếp xúc, đối mặt với những nghiệp vụ kinh doanh và các yếu tố cạnh tranh hàng ngày.
Nguyên tắc chung, t yêu cầu sử dụng tài sản Có để quyết định qui mô, cơ cấu tài sản Nợ và định hướng phát triển của ngân hàng, tu theo đặc điểm, cơ chế hoạt động của ngân hàng mà bảng cân đối được thực hiện theo các chỉ tiêu khác nhau. Nhìn chung, cân đối vốn thường được thực hiện chủ yếu theo kì hạn nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng, ngoài ra còn thực hiện cân đối theo loại tiền( nội tệ và ngoại tệ).
d. Quản trị thu nhập và chi phí
TSC mang lại thu nhập cho ngân hàng, ngược lại TSN sẽ làm phát sinh các khoản chi phí cho ngân hàng, một trong những mục tiêu hoạt động của ngân hàng là tối đa hóa lợi nhuận, do vậy cần phải quản trị tốt các khoản thu nhập và các khoản chi phí phát sinh t các tài sản của ngân hàng, mà chủ yếu là các khoản thu nhập và chi phí mang tính chất lãi. Quản trị thu nhập và chi phí phát sinh t các TSC, TSN của ngân hàng cũng là một nội dung quan trọng trong quản trị cấu trúc Bảng Cân đối kế toán của NH, được thực hiện thông qua quản trị lãi suất cho vay, đầu tư và quản trị chi phí huy động vốn của ngân hàng.
Về cơ bản, có hai phương thức quản trị lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn, đó là:
Thứ nh t, phương thức cố định i su t
Cách làm cổ điển nhất (vì nó có t thời đại Hy –lạp) là cách cho vay hoặc đầu tư theo kiểu cố định lãi suất. Các ngân hàng đưa ra các thang lãi suất đã lập sẵn
để thông báo cho khách hàng, khách hàng chỉ có việc chấp nhận mức lãi suất ấy nếu muốn vay.
Thứ hai, phương thức thả nổi i su t:
Khi ngân hàng thả nổi lãi suất và chấp nhận tính lãi theo t ng kết quả thương lượng của t ng thương vụ, sẽ có nhiều khách hàng tìm đến và ngân hàng sẽ có nhiều cơ hội tốt để chọn lựa việc đầu tư. Không phải ngân hàng tìm khách hàng một cách đơn phương nữa mà cả khách hàng cũng tìm ngân hàng, vì cả hai đều thấy có thể có nhiều lợi ích qua thương lượng. Ngân hàng sẽ có thể ở một vài thương vụ – cho vay với lãi suất thấp để giữ những khách hàng có uy tín.
Với lãi suất cố định, ngân hàng quan tâm đến lợi nhuận về mặt ngắn hạn mà bỏ quên khách hàng. Ngược lại, với lãi suất thả nổi, ngân hàng quan tâm đến khách hàng và lợi nhuận trong mục tiêu dài. Ngân hàng cần quyết định nên áp dụng lãi suất cố định hay lãi suất thả nổi. Các khoản cho vay ngắn hạn nên dùng lãi suất cố định, các khoản cho vay dài hạn có thể dùng lãi suất thả nổi. Tuy nhiên, quyết định áp dụng loại lãi suất nào còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như mức cầu tín dụng,... chứ không chỉ phụ thuộc vào kì hạn cho vay.
Với các phương thức quản trị lãi suất đó, việc quản trị lãi suất cho vay và quản trị chi phí huy động vốn được thực hiện như sau:
d1. Quản trị i su t cho vay
Cùng với quá trình tự do hóa hoạt động ngân hàng tại nhiều quốc gia, sự gia tăng mạnh trong cạnh tranh đã thu hẹp đáng kể khả năng sinh lời của ngân hàng t các nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay. Chính vì vậy, việc định giá chính xác các khoản cho vay ngày càng trở thành vấn đề cấp thiết đối với ngân hàng trong giai đoạn hiện nay.
Để thực hiện định giá các khoản cho vay, các ngân hàng thường sử dụng những phương pháp sau: định giá lãi suất cho vay theo lãi suất cơ sở (The Prime rate); định giá lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng; định giá
khoản cho vay theo lãi suất cho vay và các yếu tố phi lãi suất (lãi suất hiệu dụng).
d2. Quản trị chi phí vốn huy động.
Quản trị chi phí vốn huy động giúp NH lựa chọn cho mình nguồn vốn với chi phí thấp nhất; giúp NH tăng thu nhập mà không phải nắm giữ các tài sản rủi ro cao; đồng thời giúp NH tạo được vị thế trong cạnh tranh (lãi suất huy động, lãi suất cho vay, phí dịch vụ...). Để quản trị được chi phí vốn huy động, cần lựa chọn phương pháp xác định chi phí của nguồn vốn này. Chi phí vốn huy động bao gồm các khoản chi phí lãi và chi phí phi lãi. Có thể dùng các phương pháp khác nhau để xác định chi phí, gồm: phương pháp xác định chi phí vốn bình quân; phương pháp xác định chi phí biên; phương pháp "chi phí và thu nhập mong đợi".
1.1.3.2. Quản trị rủi ro thanh khoản
Quản trị rủi ro thanh khoản là việc NHTM sử dụng hệ thống các cơ chế quản trị, giải pháp nghiệp vụ và công cụ kỹ thuật thích hợp nhằm duy trì thường xuyên trạng thái cân bằng cung và cầu thanh khoản, xử lí kịp thời những tình huống rủi ro thanh khoản nhưng vẫn bảo đảm khả năng sinh lời cho ngân hàng [28].
Quản trị rủi ro thanh khoản của NHTM gồm những nội dung:
a. Đo ường và theo dõi yêu cầu c p vốn ròng
Mỗi ngân hàng cần xây dựng một qui trình theo dõi và đo lường liên tục các yêu cầu cấp vốn ròng, thực chất là việc phân tích, đo lường trạng thái thanh khoản của ngân hàng. Một số phương pháp có thể được sử dụng để đo lường thanh khoản t phương pháp truyền thống dựa vào đánh giá các chỉ tiêu tĩnh trên bảng Cân đối kế toán cho đến phương pháp có mức độ tân tiến cao.
Phương pháp truyền thống
Phương pháp truyền thống là phương pháp tiếp cận các chỉ số, còn gọi là phương pháp phân tích thanh khoản tĩnh. Theo phương pháp này, ngân hàng không ước lượng một mức thâm hụt hay thặng dư thanh khoản cụ thể mà ước tính yêu cầu thanh khoản dựa trên kinh nghiệm và mức bình quân ngành, t đó sẽ duy trì các chỉ
số thanh khoản ở mức bằng hoặc an toàn hơn các ngân hàng khác trong ngành.
Phương pháp phân tích thanh khoản động
Là phương pháp quản trị thanh khoản bằng cách dự đoán cung cầu thanh khoản, dự đoán chênh lệch cung cầu (khe hở, GAP) thanh khoản, t đó đưa ra chính sách quản trị thanh khoản. Trong phương pháp này sẽ sử dụng thang đáo hạn như một công cụ hữu ích để phân tích các dòng tiền vào và dòng tiền ra tính đến một thời điểm nhất định trong tương lai theo các dải kì hạn khác nhau. Thang đáo hạn được xây dựng trước tiên trên cơ sở kì đáo hạn của hợp đồng đối với các tài sản và công nợ; sau đó cần phải xây dựng thang đáo hạn trên cơ sở kì đáo hạn thực tế theo các kịch bản khác nhau. Tức là phải phân tích được chêch lệch kì đáo hạn trong trạng thái động (G P năng động) chứ không phải trạng thái tĩnh (G P tĩnh)
b. Quản trị khả năng tiếp cận thị trường
Mỗi NH cần xem xét định kì các nỗ lực của mình trong việc xây dựng và duy trì quan hệ với những người nắm giữ TSN, để đa dạng hóa các TSN và đảm bảo khả năng bán được các TSC của mình.
Một thành phần quan trọng trong quản trị rủi ro thanh khoản là việc đánh giá khả năng tiếp cận thị trường và hiểu được những lựa chọn trong việc huy động vốn của ngân hàng. Đơn giản là, một ngân hàng cần hiểu được họ có thể huy động bao nhiêu vốn t thị trường cả trong điều kiện bình thường và trong những điều kiện bất lợi.
Các cán bộ quản trị cao cấp cần đảm bảo là khả năng tiếp cận thị trường một cách tích cực bởi các cán bộ thích hợp trong ngân hàng. Các quan hệ tồn tại với các đối tác kinh doanh, các ngân hàng đại lí, các khách hàng là công ty và các hệ thống thanh toán. Xây dựng các mối quan hệ tốt với các khách hàng cấp vốn chủ chốt có thể bảo vệ ngân hàng trước những vấn đề về khả năng thanh khoản và là một phần không thể thiếu trong việc quản trị khả năng thanh khoản của ngân hàng. Tần suất của các quan hệ và tần suất sử dụng các nguồn vốn là hai chi tiêu có thể phản ánh sức mạnh các mối quan hệ này.
Việc tập trung vào một số nguồn vốn làm tăng rủi ro thanh khoản. Vì vậy,
khi kiểm tra mức độ đa dạng hóa TSN, ngân hàng cần xem xét mức độ phụ thuộc vào các nguồn vốn nhất định theo đối tượng, công cụ, tính chất của người cấp vốn và sự phân bổ về mặt địa lí. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần hiểu và đánh giá việc tài trợ vốn cho các đơn vị giao dịch riêng lẻ của mình. Bộ phận ngân quỹ hoặc các bộ phận được xác định khác của ngân hàng cần chịu trách nhiệm theo dõi các lựa chọn về nguồn vốn và xu hướng hiện thời của các lựa chọn này. Trong tất cả các ngân hàng, các cán bộ quản trị cao cấp cần nắm được cơ cấu, tính chất và mức độ đa dạng hóa các nguồn vốn.
Phát triển thị trường để bán tài sản hoặc khai thác các cơ chế mà theo đó ngân hàng có thể đi vay dựa trên TSC của mình là một yếu tố khác của quản trị khả năng tiếp cận thị trường. Việc có đưa vào điều khoản bán khoản vay trong hợp đồng hay không và tần suất sử dụng các thị trường bán tài sản là hai chỉ tiêu phản ánh khả năng bán tài sản của ngân hàng trong những tình huống không thuận lợi.
c. Lập kế ho ch dự phòng
Các ngân hàng cần có kế hoạch dự phòng trong đó có chiến lược xử lí các vấn đề về khả năng thanh khoản và các cách xử lí sự suy giảm về luồng tiền trong những tình huống khẩn cấp.
Khả năng chịu đựng những gián đoạn kể cả tạm thời và dài hạn trong việc cấp vốn cho một số hoặc toàn bộ hoạt động của ngân hàng với mức chi phí hợp lí phụ thuộc vào chất lượng các kế hoạch dự phòng chính thức của ngân hàng. Do các ngân hàng ngày càng trông cậy ít hơn vào các khoản tiền gửi chủ chốt như là một nguồn vốn ổn định và dựa ngày càng nhiều vào các nguồn vốn thứ cấp nên nhu cầu phải có các kế hoạch dự phòng trở nên quan trọng hơn. Một kế hoạch dự phòng có hiệu quả cần xử lí 2 câu hỏi lớn sau:
- Liệu các cán bộ quản trị có chiến lược nào để xử lí khủng hoảng hay không?
- Liệu các nhà quản trị có qui trình để tiếp cận các nguồn vốn trong trường hợp khẩn cấp? Các cán bộ quản trị cao cấp cần xem xét những câu hỏi này một cách thực tế để quyết định cách thức mà ngân hàng có thể tồn tại trong những điều kiện
bất lợi. Ngoài ra, các cán bộ quản trị cũng cần xác định và hiểu được những loại sự kiện mà nếu chúng xảy ra, ngân hàng sẽ phải dùng tới các kế hoạch dự phòng vể khả năng thanh khoản.
d. Kiếm soát nội bộ đối với việc quản trị rủi ro thanh khoản
Mỗi NH cần có một hệ thống kiểm soát nội bộ đầy đủ cho quá trình quản trị rủi ro về khả năng thanh khoản. Một thành phần cơ sở của hệ thống kiểm soát nội bộ là việc đánh giá và xem xét một cách độc lập tính hiệu quả của hệ thống và đảm bảo là việc kiểm soát nội bộ được tăng cường hoặc chỉnh sửa khi cần thiết. Kết quả của những đánh giá này cần được cung cấp cho các cơ quan giám sát.
Kiểm soát nội bộ về quản trị rủi ro thanh khoản cần thúc đẩy những hoạt động có hiệu quả, các hệ thống báo cáo quản trị và báo cáo tài chính đều đặn và đáng tin cậy, thúc đẩy việc tuân thủ các luật lệ, qui trình và các chính sách của NH.
1.1.3.3. Quản trị rủi ro lãi suất
Những thay đổi về lãi suất có thể có ảnh hưởng bất lợi đến thu nhập cũng như giá trị kinh tế của ngân hàng. Điều này xuất phát t sự chênh lệch về kì hạn giữa TSN và TSC của ngân hàng. Do vậy, ALM của ngân hàng cần phải giảm thiểu được những thiệt hại do rủi ro lãi suất gây ra.
Quản trị rủi ro lãi suất là việc ngân hàng tổ chức một bộ phận nhằm nhận biết, định lượng những tổn thất đang và sẽ gây ra t rủi ro lãi suất để t đó có thể giám sát và kiểm soát rủi ro thông qua việc lập nên những chính sách, chiến lược sử dụng những công cụ phòng ng a và hạn chế rủi ro lãi suất t các hoạt động kinh doanh của ngân hàng một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục [14]. Quản trị rủi ro lãi suất cần được thực hiện theo qui trình sau:
a. Nhận biết rủi ro lãi su t
Rủi ro lãi suất được nhận biết qua những đánh giá của ngân hàng đối với tình trạng không cân xứng về kì hạn của TSC và TSN và dự báo diễn biến lãi suất trong tương lai. Với chức năng chuyển hóa tài sản bao gồm cả chuyển hóa kì hạn của tài
sản, các NHTM luôn nhận thức được thực tế là ngân hàng ở trong trạng thái không cân xứng về kì hạn. Ngay khi ngân hàng thực hiện một khoản cho vay, đầu tư mới hoặc nhận các khoản tiền gửi mới của khách hàng với kì hạn khác nhau thì trạng thái kì hạn của ngân hàng đã có sự thay đổi và có nguy cơ gây rủi ro lãi suất cho ngân hàng. Tuy nhiên sự nhận biết rủi ro lãi suất thường được xem xét trên cơ sở sự thay đổi trạng thái kì hạn của toàn bộ bảng cân đối tài sản chứ không phải với riêng t ng sản phẩm. Có những giai đoạn kì hạn trung bình TSC của ngân hàng lớn hơn kì hạn trung bình TSN, và nếu dự báo lãi suất sẽ tăng lên trong thời gian tới thì ngân hàng có nguy cơ bị thiệt hại. Ngược lại, ở những thời kì TSC của ngân hàng có kì hạn trung bình nhỏ hơn kì hạn trung bình TSN, kết hợp với dự báo lãi suất giảm thì ngân hàng sẽ bị tổn thất do rủi ro lãi suất.
b. Đo ường rủi ro i su t
Việc đo lường rủi ro lãi suất nhằm mục đích xác định được những tổn thất mà ngân hàng có thể phải chịu trước sự biến động của lãi suất thị trường. Tức là trả lời cho câu hỏi: Khi lãi suất thị trường tăng/giảm 1% thì thu nhập lãi ròng hoặc giá trị tài sản ròng của ngân hàng thay đổi bao nhiêu? Có thể sử dụng các mô hình sau để đo lường rủi ro lãi suất:
b1. M hình định giá i
Nội dung của mô hình này là việc phân tích các luồng tiền dựa trên nguyên tắc giá trị kế toán nhằm xác định chênh lệch giữa tiền lãi thu được t TSC và lãi phải thanh toán cho vốn huy động sau một thời gian nhất định. Để áp dụng mô hình này, trước hết toàn bộ TSC và TSN của ngân hàng sẽ được phân thành các nhóm tài sản nhạy cảm với lãi suất theo các mức kì hạn, tính trên cơ sở thời hạn còn lại của tài sản. Cơ sở cho việc phân loại dựa vào mức độ biến động của thu nhập t lãi suất (đối với TSC) và chi phí trả lãi (đối với TSN) khi lãi suất thị trường có sự thay đổi.
Có thể xác định mức độ giảm thu nhập lãi ròng của ngân hàng khi lãi suất thay đổi theo mô hình định giá lại như sau:
NIIi = GAPi x Ri với GAPi = RSAi - RSLi
Trong đó:
NIIi: Sự thay đổi thu nhập ròng t lãi suất của nhóm tài sản i
Ri: Mức thay đổi lãi suất của nhóm i GAPi: Chênh lệch TSC và TSN của nhóm i RSAi: Số dư TSC nhóm i
RSLi: Số dư TSN nhóm i
Theo mô hình định giá lại có thể thấy rằng, khi TSC và TSN nhạy cảm với lãi suất của ngân hàng có sự chênh lệch, ngân hàng luôn đứng trước nguy cơ rủi ro lãi suất mỗi khi lãi suất biến động. Ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất đến thu nhập ròng của ngân hàng được tóm tắt như sau:
Sự thay đổi lãi suất | Sự thay đổi thu nhập lãi ròng | |
> 0 | Tăng | Tăng |
> 0 | Giảm | Giảm |
< 0 | Tăng | Giảm |
< 0 | Giảm | Tăng |
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp nâng cao chất lượng quản trị tài sản nợ, tài sản có tại ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn Việt Nam - 1
- Giải pháp nâng cao chất lượng quản trị tài sản nợ, tài sản có tại ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn Việt Nam - 2
- Chất Lượng Quản Trị Tài Sản Nợ, Tài Sản Có Của Ngân Hàng Thương Mại
- Báo Cáo Ngày Về Hạn Mức Thanh Khoản T T 1 Đến T+7
- Cơ Cấu Bộ Máy Alm Và Hệ Thống Sổ Sách Của Boc
Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.
Như vậy, có thể nhận thấy không phải trong trường hợp nào sự biến động của lãi suất thị trường cũng gây thiệt hại cho ngân hàng. Do vậy NH có thể theo đuổi các chiến lược quản trị rủi ro lãi suất khác nhau.
Mô hình định giá lại tương đối đơn giản nhưng nó không tính đến một thực tế là lãi suất của các TSC và TSN khác nhau thường thay đổi với mức độ rất khác nhau ngay cả khi chúng có cùng thời hạn. Và cùng một loại tài sản nhưng ở các ngân hàng khác nhau thì mức độ thay đổi cũng khác nhau do thị phần, khả năng cạnh tranh, uy tín của mỗi ngân hàng trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn là khác nhau. Điều đó có nghĩa là trên thực tế, mỗi một loại TSC hay TSN của t ng ngân hàng sẽ có mức độ nhạy cảm với lãi suất khác nhau. Do vậy, khi phân tích chênh lệch nhạy cảm lãi suất ta phải tính cả tới các hệ số nhạy cảm lãi suất của các TSC và TSN của ngân hàng để có thể ước tính chính xác hơn mức thay đổi thu nhập lãi
ròng khi lãi suất thay đổi. Mỗi đơn vị ngân hàng dựa vào số liệu lịch sử của mình để tính hệ số nhạy cảm với lãi suất cho t ng loại TSC, TSN. Theo phương pháp này, các khoản mục TSC và TSN nhạy cảm với lãi suất sẽ được điều chỉnh theo hệ số nhạy cảm với lãi suất để tính ra chênh lệch điều chỉnh.
b2. M hình thời ượng
Thời lượng của một tài sản là thước đo thời gian tồn tại luồng tiền của tài sản này, được tính trên cơ sở các giá trị hiện tại của nó. Thời lượng của một TSC hay một TSN thực chất chính là thời gian trung bình cần thiết để thu hồi khoản vốn đã đầu tư hay để hoàn trả khoản vốn đã huy động. Thời lượng khác với thời hạn và thời hạn trung bình ở chỗ thời lượng không chỉ có quan hệ với lưu chuyển tiền tệ mà còn bị chi phối bởi lãi suất, hay nói cách khác thời lượng được xác định trên cơ sở giá trị hiện tại của các luồng tiền trong tương lai.
T việc xác định thời lượng của một khoản mục TSC hay TSN sẽ tính được thời lượng của danh mục TSC và TSN. Chênh lệch giữa thời lượng của danh mục TSC và TSN sẽ tiềm ẩn rủi ro lãi suất cho NH.
Mô hình thời lượng thiết lập mối quan hệ giữa sự thay đổi vốn tự có (giá trị tài sản ròng) với độ lệch về thời lượng của TSC và TSN khi lãi suất thị trường thay đổi, theo công thức sau:
E = -(DA - DL.k).A.
Trong đó:
i
1 i
E: Mức thay đổi vốn tự có (giá trị tài sản ròng) DA: Thời lượng của danh mục TSC
DL: Thời lượng của danh mục TSN k = L/ được gọi là tỉ lệ đòn bẩy
: Tổng TSC
i: Mức thay đổi của lãi suất i : Lãi suất ban đầu
Như vậy, tác động của sự thay đổi lãi suất đối với giá trị vốn tự có của ngân hàng có thể được tóm tắt như sau:
Trạng thái lãi suất | Sự thay đổi giá trị VTC | |
1. Dương (D > DL.L/ ) | Tăng Giảm | Giảm Tăng |
2. Âm (DA < DL.L/A) | Tăng Giảm | Tăng Giảm |
3. Cân bằng (D = DL.L/ ) | Tăng Giảm | Không đổi Không đổi |
c. iểm soát rủi ro i su t
Ngân hàng sẽ xác định chiến lược quản trị chênh lệch tài sản - nợ nhạy cảm lãi suất hay chênh lệch thời lượng. Chiến lược quản trị các mức chênh có thể là: Chiến lược quản trị mức chênh mang tính bảo vệ tức là thiết lập các mức chênh đó hướng tới 0 để giảm thiểu sự bất ổn định trong thu nhập lãi ròng, giá trị tài sản ròng của ngân hàng; Chiến lược quản trị năng động, với chiến lược này, ngân hàng sẽ thường xuyên thay đổi các mức chênh dựa trên mức độ tin cậy đối với các dự báo về lãi suất của mình. Tuy nhiên việc điều chỉnh các mức chênh đó phải trong giới hạn hạn mức.
HĐQT ngân hàng nên đặt ra hạn mức chịu đựng rủi ro lãi suất và truyền đạt lại cho BĐH cấp cao. Căn cứ vào hạn mức rủi ro, BĐH nên duy trì tình trạng rủi ro của ngân hàng trong mức chịu đựng do HĐQT đặt ra khi có sự thay đổi của lãi suất. Việc kiểm soát hạn mức đảm bảo trạng thái tại đó vượt quá hạn mức đặt ra trước sẽ nhận được sự chú ý đặc biệt của BĐH. Khi đó các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro sẽ được lựa chọn, bao gồm các biện pháp nội bảng và ngoại bảng.
c1. Biện pháp nội bảng
Nguyên nhân rủi ro lãi suất của các NHTM như đã phân tích là do sự không