CHƯƠNG 2: HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Tổng quan về hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
2.1.1. Tín dụng
2.1.1.1. Sự hình thành và phát triển của tín dụng
Sự ra đời và phát triển của tín dụng trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội. Tín dụng được ra đời từ thời kỳ cổ đại từ khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã. Khi xã hội xuất hiện các trao đổi về hàng hóa, các vấn đề tư hữu tư liệu sản xuất đã xuất hiện vay mượn bằng hiện vật, đây chính là đặc điểm ban đầu của tín dụng khi tiền tệ trong trao đổi chưa ra đời. Xã hội ngày càng phát triển, việc hàng đổi hàng không còn được thông dụng và thay vào đó tiền tệ là trung gian trong các giao dịch thì tín dụng đã dần chuyển sang hình thức vay mượn được thể hiện bằng tiền tệ.
Tín dụng là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng và số vốn đó sẽ được hoàn lại vào một ngày xác định trong tương lai, có thể nói tín dụng là quan hệ chuyển nhượng một lượng giá trị từ người này sang người khác để sở hữu nó và sau một thời gian xác định được thu hồi lại với một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu (Ngô Hướng & Tô Kim Ngọc, 2001)
Từ các lập luận trên có thể thấy tín dụng là một giao dịch về giá trị tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc điểm cơ bản sau:
- Việc huy động và cho vay được thực hiện dưới hình thức tiền tệ.
- Trong quá trình huy động vốn và cho vay thì Ngân hàng đóng vai trò trung gian tài chính.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn thành phố Hà Nội - 1
- Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn thành phố Hà Nội - 2
- Những Nội Dung Đã Thống Nhất Và Khoảng Trống Cần Nghiên Cứu Trong Luận Án Về Hiệu Quả Hoạt Động Tín Dụng Của Ngân Hàng
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Chỉ Tiêu Đánh Giá Hiệu Quả Hoạt Động Tín Dụng
- Kinh Nghiệm Xử Lý Nợ Quá Hạn Của Các Ngân Hàng Hàn Quốc
- Phân Tích Hiệu Quả Hoạt Động Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Tmcp Trên Địa Bàn Hà Nội
Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.
- Tài sản trong giao dịch bao gồm hai hình thức là cho vay và cho thuê, cho vay được thể hiện bằng tiền tệ, cho thuê có thể được thể hiện bằng hình thức tài sản là bất động sản hay động sản.
- Theo nguyên tắc hoàn trả của tín dụng thì người cho vay khi chuyển giao tài sản của mình cho người khác vay phải có cơ sở tin tưởng rằng sau một thời gian nhất định người đi vay sẽ trả đúng hạn và giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị khi cho vay, người đi vay phải trả thêm một phần thặng dư gọi là lãi khi sử dụng vốn từ người cho vay.
2.1.1.2. Các loại hình tín dụng
Trên cơ sở lý thuyết về tín dụng, qua các thời kỳ phát triển tín dụng bao gồm nhiều loại hình khác nhau, các loại hình tín dụng được phân loại theo sự sắp xếp khoản cho vay dựa trên các tiêu chí cụ thể. Việc sắp xếp này là cơ sở khoa học để thiết lập quy trình cho vay phù hợp với từng loại hình cho vay khác nhau, giúp cho công tác cho vay của ngân hàng được theo dõi và quản lý một cách dễ dàng hơn. Các loại hình cho vay được phân loại dựa theo các tiêu chí.
- Xét về mục đích vay bao gồm: Cho vay bất động sản, cho vay công nghiệp và thương mại, cho vay chứng khoán, cho vay nông nghiệp, cho vay các định chế tài chính, cho vay cá nhân, cho thuê...
- Xét về thời gian cho vay bao gồm: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn, cho vay dài hạn.
- Xét về mức độ tín nhiệm uy tín của khách hàng bao gồm: Cho vay không tài sản bảo đảm, cho vay có bảo đảm.
- Xét về hình thức cho vay bao gồm: Cho vay vốn ngắn hạn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của cá nhân, doanh nghiêp, cho vay theo dự án đầu tư...
2.1.2. Ngân hàng thương mại
2.1.2.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại đã được hình thành phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Thông qua HĐTD thì NHTM tạo lợi ích cho người gửi tiền, người vay tiền và cho cả ngân hàng thông qua chênh lệch lại suất thu được. NHTM là một phạm trù kinh tế có rất nhiều khái niệm và cách hiểu qua các thời kỳ, như ở Mỹ thì NHTM được coi là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán đồng thời thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế (Peter S.Rose, 2001)
PGS.TS Phan Thị Thu Hà (2005) cho rằng Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường chiếm tỷ lệ lớn nhất về quy mô tài sản thị phần và số lượng các ngân hàng, theo đó NHTM được hiểu là một đơn vị kinh doanh tiền tệ với hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi và cho vay ngoài ra thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng khác theo quy định, hoạt động của NHTM được thực hiện đầy đủ chức năng của một ngân hàng được quy định cụ thể theo pháp luật hiện hành và được quy định cụ thể trong giấy phép kinh doanh được cấp.
2.1.2.2. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
Hoạt động kinh doanh của NHTM bao gồm các nghiệp vụ như nhận tiền gửi thông qua việc mở các tài khoản giao dịch cho khách hàng, quản lý tiền mặt tiền tiết kiệm, trao đổi ngoại tệ, cho vay, cho thuê tài chính, tư vấn tài chính các dịch vụ bảo hiểm, môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp... Có thể nói rằng đây là định nghĩa về dịch vụ ngân hàng khá đầy đủ. Các loại hình dịch vụ ngân hàng bao gồm:
- Nhận tiền gửi: tiền gửi là nguồn vốn quan trọng để duy trì hoạt động được thể hiện qua các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng, tiền gửi là nguồn để ngân hàng cho vay.
- Mua bán ngoại tệ: đây là dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện, trong đó ngân hàng đứng ra mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và ngân hàng sẽ thu một khoản phí cho việc trao đổi này.
- Bảo quản vật có giá trị hay tài sản có giá: Đây là loại hình dịch vụ để bảo đảm an toàn cho khách hàng đối với tài sản cá nhân, ngân hàng thường có phòng bảo quản để lưu giữ vàng hay các vật có giá trị mà khách hàng kí gửi. Các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng có thể được lưu hành như tiền, đây là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng.
- Tài trợ các hoạt động của chính phủ: các ngân hàng được thành lập với điều kiện là họ phải mua trái phiếu của chính phủ theo một tỉ lệ nhất định trên tổng số tiền gửi mà ngân hàng huy động được điều này được thể hiện qua việc phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường mở của Ngân hàng trung ương với mục đích điều hành chính sách tiền tệ của nhà nước.
- Hoạt động cho vay; cho vay là hoạt động chủ yếu của ngân hàng điều này được thể hiện qua bản chất của ngân hàng là huy động vốn và cho vay, việc cho vay là hoạt động trực tiếp tạo ra lợi nhuận. Xã hội càng phát triển các ngân hàng càng ngày càng có sự phát triển đa dạng về các sản phẩm cho vay như; cho vay doanh nghiệp, cho vay cá nhân, cho vay hộ sản xuất, cho vay tiêu dùng cá nhân, cho vay theo dự án đầu tư hoặc các ngân hàng thường đưa ra các sản phẩm cho vay đặc thù với mức lãi suất khác nhau để thu hút khách hàng như cho vay mua ô tô trả góp, cho vay xuất khẩu…
- Tư vấn tài chính: ngày nay ngân hàng cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho khách hàng cá nhân đến việc nghiên cứu về cơ hội đầu tư, về thị trường trong nước và nước ngoài đối với khách hàng doanh nghiệp. Việc tư vấn tài chính là nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, kinh tế càng phát triển quy mô hoạt động kinh doanh càng lớn đòi hỏi mỗi cá nhân, doanh nghiệp khi đầu tư hay đi vay phải có kiến thức về tài chính nhất định mà điều này họ còn thiếu do đó cần phải có sự hỗ trợ của ngân hàng như một dịch vụ để họ có sự hiểu biết chuyên sâu hơn về lĩnh vực tài chính để tránh những rủi ro gặp phải.
- Trung gian thanh toán, đây là nghiệp vụ cơ bản của NHTM, với xu hướng của xã hội hiện đại việc thanh toán dần sử dụng theo phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, mọi giao dịch kinh tế đều được giao dịch thanh toán qua ngân hàng qua việc mở tài khoản của khách hàng. Dịch vụ thanh toán của ngân hàng bao gồm thanh toán trong nước qua hình thức chuyển khoản, hay thanh toán quốc tế qua các hình thức chuyển tiền, thanh toán bằng bộ chứng từ qua phương thức L/C…
- Giao dịch tiền mặt: dịch vụ này ngân hàng đáp ứng như cầu tiền mặt cho khách hàng qua các hoạt động thu chi, kiểm đếm để tạo thuận tiện cho khách hàng trong các giao dịch tiền mặt lớn không phát sinh rủi ro, việc quản lý tiền mặt thông qua tài khoản thanh toán không kỳ hạn giúp cho khách hàng chủ động trong việc dùng tiền cho chi tiêu và hoạt động sản xuất kinh doanh mà không phải duy trì lượng tiền mặt tại nhà hay tại doanh nghiệp…
- Bán các dịch vụ bảo hiểm: ngoài các loại bảo hiểm tín dụng nhằm đảm bảo việc hoàn trả của khách hàng vay vốn trong trường hợp chết hay tàn phế, ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho tài sản như nhà cửa, xe hơi…
- Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, ngân hàng đã tạo lập và cung cấp nhiều
dịch vụ mang lại tiện ích cho khách hàng như: môi giới chứng khoán, tư vấn mua bán chứng khoán…
2.1.2.3. Xu hướng phát triển trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại hiện nay
- Ngân hàng ngày càng cung cấp nhiều các sản phẩm dịch vụ: Với sự phát triển và tiến bộ của nền kinh tế và ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động của ngân hàng thì sự phát triển đa dạng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng là đòi hỏi tất yếu, với thị trường ngày càng chật hẹp, xu hướng cạnh tranh ngày càng gay gắt các NHTM không thể chỉ dựa vào các sản phẩm dịch vụ truyền thống mà ngày càng phải nghiên cứu đưa ra những sản phẩm dịch vụ mới hiện đại đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Hiện nay, các NHTM phải mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ để phục vụ khách hàng và cạnh tranh với các đối thủ khác. Nếu như trước đây ngân hàng được hiểu theo nghĩa cơ bản là đi vay và cho vay thì ngày nay khi nền kinh tế phát triển nhu cầu của cuộc sống ngày càng đa dạng, ngân hàng cũng đóng vai trò đặc biệt cung cấp các sản phẩm dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu phát triển, ngoài nghiệp vụ truyền thống là nhận tiền gửi và cho vay, các NHTM ngày càng phát triển thêm các dịch vụ ra tăng khác như; thu chi hộ, kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh vàng, cho thuê két sắt, tư vấn tài chính, các hình thức ngân hàng điện tử, thẻ ngân hàng…
- Áp lực cạnh tranh của hoạt động ngân hàng ngày càng cao: Xã hội ngày càng phát triển, ngân hàng cũng là một ngành kinh doanh cũng như các ngành khác phải chịu áp lực cạnh tranh cao. Với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, các quốc gia dần thu hẹp khoảng cách do nhu cầu về hội nhập nền kinh tế, ngành ngân hàng không thể chỉ bó hẹp trong mỗi quốc gia mà phải có sự cạnh tranh với các ngân hàng đến từ các quốc gia khác nhau. Với áp lực cạnh tranh cao đòi hỏi các ngân hàng phải không ngừng đổi mới đặc biệt là việc ứng dụng các công nghệ hiện đại trong hoạt động.
- Các yêu cầu đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng ngày càng gay gắt: Kinh tế ngày càng phát triển, việc khủng hoảng trong nền kinh tế liên tục diễn ra tại các quốc gia khác nhau, sự đổ vỡ của các ngân hàng đặc biệt sự phá sản của cả các ngân hàng lớn có truyền thống hàng trăm năm cho thấy hoạt động ngân hàng ngày càng chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn, các yêu cầu về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng ngày càng được đặt ra. Theo hiệp ước Basel II, các ngân hàng cần phải đạt các chuẩn mực trong an toàn vốn tối thiểu, cũng như các chỉ số an toàn khác, việc áp dụng các chỉ số an toàn chung cũng như xếp hạng các ngân hàng hàng năm để đánh giá khả năng an toàn và uy tín của ngân hàng đó trên thị trường quốc tế. Với các yêu cầu về an
toàn trong hoạt động, các NHTM hiện nay đang phải đối mặt với nhiều thách thức và luôn phải đổi mới để đảm bảo các yêu cầu theo thông lệ quốc tế như việc cổ phần hóa và nâng vốn điều lệ, quy định chặt chẽ các tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng như tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn…
- Sự gia tăng ứng dụng công nghệ trong hoạt động ngân hàng: Trước áp lực cạnh tranh và các yêu cầu về quản trị rủi ro, các ngân hàng ngày càng phải tập trung đầu tư cho công nghệ. Việc đầu tư công nghệ giai đoạn đầu sẽ gây tốn kém nhưng sẽ giúp ngân hàng tăng năng suất lao động tối đa hóa lợi nhuận. Với việc đầu tư hệ thống lõi cho phép các ngân hàng mở rộng đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng mạng lưới tiếp cận tốt hơn dịch vụ hiện đại, quản lý được tự động nhiều nghiệp vụ ngân hàng khác nhau, như chuyển tiền, thanh toán quốc tế… Đặc biệt, chỉ có ứng dụng công nghệ hiện đại, các ngân hàng mới phát triển được các sản phẩm ngân hàng điện tử như: Hệ thống máy rút tiền tự động ATM, máy POS, E Banking… Ứng dụng công nghệ hiện đại như một xu thế tất yếu của hoạt động ngân hàng nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà nền kinh tế còn nhiều biến động, việc khủng hoảng và lạm phát cũng như bất ổn chính trị xảy ra tại nhiều nền kinh tế, đòi hỏi hoạt động ngân hàng phải có phương pháp quản trị hiện đại, giám sát từ xa để ngăn ngừa được rủi ro.
2.2. Hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
2.2.1. Khái niệm hiệu quả tín dụng
Để hiểu được về hiệu quả tín dụng là gì trước tiên luận án đề cập đến khái niệm về hiệu quả, ngay từ thời xưa các nhà kinh tế đã đề cập đến thuật ngữ về “hiệu quả Pareto” theo đó Vilfredo Pareto một nhà kinh tế học người Ý đã sử dụng khái niệm về hiệu quả này trong các nghiên cứu của ông về hiệu quả kinh tế và phân phối thu nhập và được gọi là hiệu quả Pareto hay còn gọi là tối ưu Pareto là một trong những lý thuyết trung tâm của kinh tế học. Theo ông thì nếu một hệ thống kinh tế đạt được hiệu quả Pareto, không một cá nhân nào có cuộc sống tốt lên mà không khiến một người khác có cuộc sống xấu đi, vì thế hiệu quả Pareto là một tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá các hệ thống kinh tế và các chính sách chính trị. Một cách cụ thể, người ta đã cho thấy rằng với những điều kiện được lý tưởng hóa nhất định, một hệ thống thị trường tự do sẽ dẫn đến việc đạt được hiệu quả Pareto. Điều này được đưa ra lần đầu tiên bởi hai nhà kinh tế học là Kenneth Arrow và Gerard Debreu, mặc dù kết quả của họ không phản ánh hoạt động của một nền kinh tế trên thực tế do các giả thuyết mang tính lý tưởng hóa (tất cả các hàng hóa đều có thị trường, thị trường cạnh tranh hoàn hảo, và chi phí giao dịch là không đáng kể). Kết quả của họ được gọi là định lý phúc lợi thứ nhất.
Vận dụng vào tình hình kinh tế hiện nay, có nhiều quan niệm về hiệu quả được đưa ra theo đó, hiệu quả có thể được hiểu là mong muốn của con người muốn đạt được với nguồn lực chi phí thấp nhất. Trong hoạt động kinh doanh, hiệu quả thể hiện trong mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra, mối quan hệ này có thể phản ánh mặt lượng của quá trình hoạt động và được đo bằng hệ thống các chỉ tiêu như doanh thu, chi phí, lợi nhuận. Như vậy có thể thấy hiệu quả khác với kết quả, kết quả là cái đạt được do hoạt động kinh doanh đem lại và chưa tính đến các yếu tố chi phí để có kết quả đó còn hiệu quả là sự tương quan sự so sánh giữa kết quả với chi phí trong hoạt động kinh doanh, do đó hiệu quả có nội dung rất rộng và được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
Với những quan niệm về hiệu quả và tín dụng theo như phân tích ở các phần trên thì có thể nói hiệu quả tín dụng của ngân hàng là kết quả lợi ích mà ngân hàng nhận được từ HĐTD sau khi loại bỏ các chi phí phải bỏ ra cho HĐTD. Trong hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay, HĐTD là một nghiệp vụ truyền thống, nền tảng, chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu tài sản và cơ cấu thu nhập, nhưng cũng là hoạt động phức tạp, tiềm ẩn những rủi ro lớn cho các NHTM. Tính hiệu quả của HĐTD là HĐTD phải đảm bảo an toàn vốn, tối đa lợi nhuận cho ngân hàng và có sự đóng góp chung cho nền kinh tế, tạo ra sự hài lòng thỏa mãn của mọi đối tượng khách hàng khi được ngân hàng cấp tín dụng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng trên thị trường, bên cạnh đó là công cụ để NHNN điều hành các chính sách tín dụng chính sách tiền tệ cho nền kinh tế trong từng thời kỳ.
2.2.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM
2.2.2.1. Tỷ suất lợi nhuận thuần từ hoạt động tín dụng
Theo thuật ngữ về lợi nhuận trong kinh tế học thì lợi nhuận là phần tài sản mà nhà đầu tư nhận thêm nhờ đầu tư sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến đầu tư đó, bao gồm cả chi phí cơ hội, là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Lợi nhuận trong ngân hàng là kết quả tài chính là mục tiêu kinh doanh quan trọng của ngân hàng. Khi tốc độ tăng doanh thu chậm hơn tốc độ tăng chi phí sẽ dẫn đến lợi nhuận giảm sút, lợi nhuận từ hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng chủ yếu trong hoạt động của NHTM tại Việt nam hiện nay. Lợi nhuận từ HĐTD chính là lợi nhuận thu được từ HĐTD của ngân hàng, tỷ suất lợi nhuận từ HĐTD là tỷ lệ % giữa Thu nhập thuần từ HĐTD và dư nợ cho vay, được tính toán như sau:
Tỷ suất lợi nhuận thuần từ HĐTD
Thu nhập thuần từ HĐTD
= Tổng dư nợ bình quân X 100%
Nguồn: Phan Thị Thu Hà (2005), Giáo trình Quản trị Ngân hàng thương mại
Thu nhập thuần từ HĐTD được tính toán theo công thức sau:
Thu nhập thuần từ = HĐTD
Doanh thu từ
lãi cho vay - (1)
Chi phí trả lãi cho vay (2)
Chi phí dự
- -
phòng (3)
Chi phí hoạt động khác (4)
(1) = Dư nợ tín dụng * Lãi suất cho vay bình quân
(2) = Dư nợ tín dụng * Lãi suất huy động bình quân
(3) Đây là các loại dự phòng mà ngân hàng phải trích để đảm bảo an toàn vốn cho HĐTD khi xảy ra rủi ro được tính toán như sau:
Chi phí dự phòng cho vay
= ( Nợ xấu -
Giá trị giảm trừ tài
) x
sản đảm bảo
% trích lập dự phòng
(4) = Chi phí lương + Chi về tài sản + chi phí quản lý + Chi phí khác
Thu nhập thuần từ lãi cho vay
= (1) - (2) =
Dư nợ
(
tín dụng
Lãi suất cho vay bình quân
Lãi suất huy
- )
động bình quân
Nguồn: Phan Thị Thu Hà (2005), Giáo trình Quản trị Ngân hàng thương mại
2.2.2.2. Chỉ tiêu ROA, ROE
ROA, ROE là chỉ tiêu phản ánh chung cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong đó có ngân hàng, hiện nay do HĐTD vẫn là hoạt động chủ yếu nên các chỉ tiêu trên ảnh hưởng chung đến hoạt động của một ngân hàng cũng ảnh hưởng tới hiệu quả HĐTD, hiệu quả dựa trên tổng tài sản và vốn chủ sở hữu có ý nghĩa quan trọng khi xác định hiệu quả tổng thể của ngân hàng.
- ROA: Tỷ số lợi nhuận trên tài sản, ROA được viết tắt từ các chữ cái đầu của cụm từ tiếng Anh - Return on Assets, ROA là một tỷ số tài chính dùng để đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của doanh nghiệp, theo công thức sau:
ROA =
Lợi nhuận sau thuế Tổng tài sản bình quân
Nguồn: Phan Thị Thu Hà (2005), Giáo trình Quản trị Ngân hàng thương mại