Vùng Biên Giới Việt - Trung Trong Chiến Lược Phát Triển Đất Nước Thời Hội Nhập

kiến và cuối cùng được xác lập trên cơ sở một hiệp định giữa Trung Quốc và Pháp đại diện Việt Nam. Quan điểm về đường biên giới quốc gia kiểu phương Tây đã được thực dân Pháp du nhập và xác định, biến vùng biên giới vốn còn mơ hồ trước đây thành một đường biên có mốc giới xác định. Tuy nhiên đường biên giới chính trị, biểu tượng của chủ quyền lãnh thổ quốc gia không trùng khớp với đường biên giới văn hóa của các tộc người. Trên dải đất biên cương này, nhiều tộc người đã và đang cùng cư trú vắt ngang biên giới, và họ chia sẻ nhiều đặc điểm tương đồng và khác biệt về văn hóa và ngôn ngữ, tạo nên bức tranh đa dạng nhưng sống động về văn hóa của một vùng biên giới lịch sử.

2. Cùng với sự xác định của đường biên giới quốc gia, thuộc tính biên giới và tính chất xuyên biên giới của biên dân ở vùng biên Việt – Trung cũng hình thành. Các mối quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội xuyên biên giới không bị lu mờ và mất đi bởi sự phân định đường biên và các rào cản chính trị của hai nhà nước. Những tương đồng về kinh tế, ngôn ngữ, văn hóa và mạng lưới xã hội riêng, một mặt, đã tạo cơ sở cho những năng động của cư dân vùng biên nhưng mặt khác, đặc tính xuyên biên giới của các tộc người cũng đặt ra nhiều vấn đề về an ninh trật tự và bảo vệ an toàn quốc gia đối với mỗi nước.

3. Các tộc người xuyên biên giới ở Việt Nam và Trung Quốc là hết sức đa dạng về thành phần. Tuy nhiên, bất chấp sự thật là chính các cư dân này thừa nhận tính đồng tộc về nguồn gốc và văn hóa của họ, các tiêu chí xác định tộc người ở hai nước đã tạo nên những sai khác nhất định trong tên gọi, thành phần và số lượng các tộc người. Mặc dù cả hai nước đều vận dụng quan điểm Stalin vào công tác phân định thành phần tộc người nhưng mỗi nước lại dựa trên tình hình thực tế của mình để nêu ra các tiêu chí riêng. Và đó là lý do dẫn đến sự sai khác trong tên gọi cũng như số lượng các tộc người xuyên biên giới Việt – Trung.

4. Các nhóm tộc người xuyên biên giới Việt – Trung không phải là những thành phần cư dân đồng nhất về lịch sử tụ cư. Một vài tộc người được xác định là những cư dân bản địa, một số tộc người khác di cư từ các nước láng giềng tới nhưng trong số các tộc người xuyên biên giới ở Việt Nam, số đông đều có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc và đến Việt Nam định cư trong các thời điểm khác nhau. Các tộc người xuyên biên giới Việt – Trung phong phú về thành phần và đa dạng về văn hóa nhưng họ chịu ảnh hưởng của những yếu tố có tính chi phối sự đổi thay văn hóa của họ. Một mặt, họ

có xu hướng duy trì những đặc trưng văn hóa gốc của mình nhưng mặt khác, trong quá trình thiên di không ngừng cùng sự tác động của các yếu tố khác, các nhóm tộc người đến định cư trên dải đất này đã tiếp thu nhiều yếu tố mới vào vốn văn hóa của mình. Lịch sử di cư và phân ly làm cho nhiều tộc người xuyên biên giới có mặt ở vùng biên phía bắc Việt Nam có dân số rất nhỏ, và xu hướng phổ biến hiện nay là các nhóm này đang dần tiếp nhận nhiều hơn các yếu tố văn hóa của tộc người đa số trong vùng. Sự hội nhập ngày càng sâu vào quốc gia dân tộc, trong đó hệ thống giáo dục hiện đại và vai trò của văn hóa chính trị cũng góp phần làm cho bản sắc của họ trở nên có nhiều yếu tố mới so với các nhóm gốc.

Chương 4

CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN Ở VÙNG BIÊN GIỚI VIỆT – TRUNG CỦA VIỆT NAM

4.1. Vùng biên giới Việt - Trung trong chiến lược phát triển đất nước thời hội nhập

Ngay sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao (1991), nhiều chương trình phát triển vùng biên đã được đề xuất, và đến đầu những năm 2000, hàng loạt văn bản liên quan đến vùng biên giới Việt – Trung đã được phê duyệt. Có ý nghĩa bước ngoặt đối với phát triển khu vực biên giới phía Bắc là Quyết định số 120/2003/QĐ-TTg ngày 11 tháng 6 năm 2003 của Thủ tướng Chính Phủ trong đó xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên tuyến biên giới Việt - Trung đến năm 2010; Quyết định số 60/2005/QĐ-TTg ngày 24 tháng 3 năm 2005 tập trung đầu tư xây dựng phát triển các đô thị có chức năng tổng hợp nằm trong các hành lang kinh tế Việt Trung; Quyết định Số 193/2006/QĐ-TTg ngày 24/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình bố trí dân cư các vùng thiên tai, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, di cư tự do, xung yếu và rất xung yếu của rừng phòng hộ, khu bảo vệ nghiêm ngặt của rừng đặc dụng giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2015. Ngày 30/8/2007 Thủ tướng Chính phủ lại ký quyết định số 1151/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng biên giới Việt - Trung đến năm 2020.

Có thể nói Quyết định 1151/2007 là một bước ngoặt thể hiện quyết tâm của chính phủ trong chiến lược phát triển vùng biên giới Việt – Trung. Nó đã nêu ra một số vấn đề quan trọng như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.

a) Về không gian địa lý, nó xác định vùng biên giới Việt Trung là một khu vực rộng lớn, bao gồm 7 tỉnh có đường biên giới với Trung Quốc là Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Tổng diện tích tự nhiên của vùng biên giới Việt - Trung là 5.126.329 ha.

b) Về mặt chiến lược phát triển, xác định ―vùng biên giới Việt – Trung là vùng kinh tế tổng hợp, trong đó kinh tế cửa khẩu, công nghiệp khai khoáng là ngành kinh tế chủ đạo; là vùng cửa ngõ phía Bắc của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ Việt Nam và quan hệ mật thiết về kinh tế

Các tộc người xuyên biên giới và vấn đề phát triển vùng biên Việt – Trung từ 1990 đến nay - 12

với các tỉnh phía Nam và Đông Nam Trung Quốc, đồng thời có vị trí chiến lược về an ninh - quốc phòng đối với cả nước‖.

c) Về quy hoạch phát triển, hoạch định khu vực thành 3 vùng kinh tế động lực thứ cấp trong đó vùng kinh tế I (nằm dọc quốc lộ 2 qua thị xã Hà Giang và các huyện Quang Bình, Bắc Quang, Vị Xuyên, Bắc Mê) sẽ phát triển đô thị, công nghiệp chế biến, cơ khí, vật liệu xây dựng, dịch vụ, nông nghiệp; vùng kinh tế II nằm dọc tuyến quốc lộ 12 (nối quốc lộ 4Đ, quốc lộ 32 qua các huyện Phong Thổ, thị xã Lai Châu, huyện Tam Đường, huyện Than Uyên (Lai Châu) tập trung phát triển đô thị, công nghiệp chế biến, vật liệu xây dựng, dịch vụ, nông lâm nghiệp; vùng kinh tế III nằm dọc tuyến hành lang phát triển thủy điện Sơn La, thuộc các huyện Mường Tè, Sìn Hồ (Lai Châu), thị xã Mường Lay, huyện Mường Chà, Tuần Giáo (Điện Biên) phát triển công nghiệp thủy điện, chế biến, khai khoáng, dịch vụ đô thị và nông, lâm nghiệp.

d) Về ổn định dân cư, quyết định 1151 quy hoạch quỹ đất xây dựng các điểm dân cư nông thôn và đô thị, đồng thời sẽ di chuyển, ổn định cho khoảng 5.600 hộ (khoảng 28.800 người) ra sát vùng biên giới, xây dựng mới khoảng 130 điểm, cụm trung tâm xã (quy mô tối thiểu từ 15

- 50 hộ/điểm, cụm).


Song song với quy hoạch phát triển vùng biên, Chính phủ cũng ra một số thông tư hướng dẫn những chính sách cụ thể đối với vùng biên Việt Trung,

trong đó có việc khuyến khích di dân lập làng tới sát đường biên, ổn định dân cư các xã biên giới Việt - Trung và bố trí dân cư vùng thiên tai, đặc biệt khó khăn, biên giới và hải đảo (Quyết định số 60/2005/QĐ-TTg ngày 24 tháng 3 năm 2005; Quyết định Số 193/2006/QĐ-TTg ngày 24/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ;

Thông tư Số 11/2006/TT-BNN ngày 14 tháng 02 năm 2006 của Bộ Nông nghiệp) Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chiến lược phát triển vùng biên, Chính phủ

Việt Nam cũng tham gia nhiều chương trình hợp tác phát triển vùng với các tổ chức quốc tế và quốc gia láng giềng trong khu vực sông Mê Kông, đặc biệt là với Trung

Quốc. Theo hướng này, Việt nam đã tham gia vào chiến lược tạo dựng vành đai phát triển kinh tế vùng Mê Kông do Ngân hàng Phát triển châu Á đề xướng; hợp tác với Trung Quốc xây dựng vành đai kinh tế Hải Phòng, Côn Minh, xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu, và gần đây Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Ôn Gia Bảo ký kết hợp tác xây dựng Khu hợp tác xuyên biên giới vào ngày 22/10/2008. Hiện nay hai bên đang triển khai xây dựng và nghiên cứu khả thi về các khu Kim Thành (Lào Cai)- Bắc Sơn (Vân Nam) và Đồng Đăng (Lạng Sơn) - Bằng Tường (Quảng Tây). Các chính sách về thuế, đất đai cho phát triển kinh tế cửa khẩu và thương mại biên giới cũng được hai bên xem xét để thúc đẩy quá trình hợp tác song phương này.

Các thông tin nói trên cho thấy chiến lược phát triển vùng biên Việt Trung của Việt Nam tập trung vào một số trọng điểm sau đây:

a) Khuyến khích di dân định cư ở vùng biên giới;

b) Quy hoạch xây dựng vùng biên trong đó nhấn mạnh vào cơ sở hạ tầng, khu đô thị, khu kinh tế cửa khẩu và các cụm xã;

c) Hợp tác quốc tế đa phương và song phương nhằm tăng cường giao lưu kinh tế xã hội xuyên biên giới và xây dựng các khu kinh tế trọng điểm;

d) Kết hợp dự án phát triển với xóa đói giảm nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn theo chương trình 135 và 134.

Mặc dù ban hành nhiều chủ trương chính sách phát triển vùng biên giới Việt - Trung nhưng nhìn vào các văn bản này, chúng ta có thể nhận thấy Việt Nam vẫn chưa có một chiến lược tổng thể và dài hạn về phát triển vùng biên giới Việt - Trung. Các quyết định nói trên cho thấy chính phủ có mối quan tâm đặc biệt đến khu vực biên giới Việt - Trung, nhưng các chính sách liên quan chỉ phản ánh tầm nhìn trong ngắn hạn, xa nhất cũng chỉ trong khoảng 10 năm trở lại. Các chính sách đã ban hành thường bị lạc hậu nhanh do không tạo thành một tổng thể chiến lược kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng mà thường rời rạc, đôi khi chồng chéo. Điều này có thể bắt nguồn từ một thực tế là ―chiến lược‖ phát triển vùng biên chủ yếu được các bộ riêng rẽ (như Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Bộ Xây dựng) đề xuất ban hành. Chưa có một chương trình quốc gia phát triển vùng biên giới như kiểu chương trình ―hưng biên phú dân” như Trung Quốc đang làm. Hơn nữa, các quy hoạch phát triển vùng biên giới đã ban hành thường chỉ chú tâm vào xây dựng cơ sở vật chất (cụm cư dân nông thôn và đô thị, cơ sở hạ tầng và giao thông, khai khoáng và khu kinh tế cửa khẩu, v.v.). Con

người, chủ thể của vùng đất này, sự giàu có và phong phú về lịch sử và văn hóa của họ như những nội lực của phát triển lại thường không thấy nêu ra trong các chiến lược phát triển vùng biên như thế nào. Điều này cho thấy trong tầm nhìn của các nhà hoạch định chính sách, các tộc người địa phương chưa được xem là chủ thể của phát triển, chưa thực sự được quan tâm, hoặc các nhà làm chính sách có quá ít thông tin để xây dựng chiến lược. Lịch sử Việt Nam nhiều thế kỷ qua đã chứng minh rằng biên giới lãnh thổ quốc gia chỉ có thể được gìn giữ bởi chính người dân sống trên vùng đất này.

Để có được một cái nhìn so sánh về chiến lược phát triển vùng biên ở hai quốc gia láng giềng Việt Nam và Trung Quốc, trong phần viết sau đây, chúng tôi tập trung phân tích hai chương trình được xem là có tác động đến đời sống của ―biên dân‖ phía Việt Nam là chương trình 135 và chương trình phát triển khu kinh tế cửa khẩu.


4.2. Chiến lược xóa đói giảm nghèo trong các cộng đồng dân tộc ở vùng biên: Chương trình 135

Trong bối cảnh đất nước đổi mới, Đảng và Chính phủ đã thực hiện nhiều mục tiêu phát triển kinh tế xã hội miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số thông qua các chương trình quốc gia và các dự án phát triển nhằm mục tiêu tăng cường ―đoàn kết, bình đẳng, tương trợ để phát triển‖. Trên tinh thần đó, chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quan trọng thực hiện các chương trình mục tiêu xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hai văn bản quan trọng nhất trong lĩnh vực này là:

Quyết định số 133/1998/QĐ-TTg ngày 23 tháng 7 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo trong giai đoạn 1998 – 2000

Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu vùng xa.

Mục tiêu của chương trình 133 tập trung vào xóa đói giảm nghèo phát triển kinh tế hộ gia đình, nâng cao dân trí, phát triển sản xuất theo hướng hàng hóa và bảo tồn phát huy bản sắc dân tộc. Đây là chương trình tổng hợp tập trung vào việc giảm tỉ lệ đói nghèo trong cả nước từ 30%/ năm xuống 10% /năm vào năm 2000. Chương trình 135 cũng là chương trình xóa đói giảm nghèo nhưng phạm vi áp dụng được thu hẹp và nhấn mạnh vào khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa. Mặc dù không hoàn toàn

áp dụng cho khu vực biên giới nhưng do đặc điểm phân bố dân số ở Việt Nam, phần lớn cư dân khu vực biên giới là đồng bào các dân tộc thiểu số và các hầu hết các xã ở đây đều nằm trong khu vực thực hiện chương trình 135 nên chúng tôi xem chương trình 135 có mục tiêu kết hợp xóa đói giảm nghèo và phát triển các cộng đồng dân cư ở vùng biên giới của nhà nước Việt Nam.

Mặc dù được cho là tương đối thành công nhưng đến nay chưa thấy có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào đánh giá toàn diện chương trình 135. Trên thực tế, Chương trình 135 thường được thực hiện lồng ghép với các chương trình xóa đói giảm nghèo khác như 133, 134, 167 nên các nhà nghiên cứu có xu hướng tiếp cận vấn đề trong mối liên hệ với chính sách dân tộc ở Việt Nam và các chính sách phát triển khác mà Việt Nam đang áp dụng. Một số công trình nghiên cứu, các tác giả đã chú tâm phân tích chính sách giảm nghèo (Hà Quế Lâm,2002), (Lê Ngọc Thắng, 2004); (Vũ Văn Toán, 2004); (Lê Hải Đường, 2004); (Phan Văn Hùng, 2004); (Hoàng Văn Phấn, 2004); (Nguyễn Hữu Ngà,2004). Trong các nghiên cứu này, chương trình 135 chỉ được nhắc đến như một chương trình xóa đói trọng điểm và được nghiên cứu trong mối liên hệ với các chính sách cùng mục tiêu. Những đánh giá về hiệu quả của chính sách từ phía người dân và các cơ chế hay các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chính sách chưa thực sự được quan tâm mà chỉ dừng lại ở việc thống kê các kết quả đã đạt được.


4.2.1. Tính duy lý của chính sách

Quá trình phát triển kinh tế và giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam từng trải qua những bước ngoặt quanh co. Một số các chính sách dân tộc không hợp lý của nhà nước vào giai đoạn những năm 60-70 của thế kỳ 20 đã đẩy mối quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam diễn biến theo chiều hướng xấu thậm chí có những lúc đã diễn ra hết sức gay gắt. Bước sang thời kì đổi mới, mối quan hệ dân tộc giữa các dân tộc, các khu vực ở Việt Nam phải đối phó với các vấn đề hết sức nặng nề.

Thứ nhất: sự chênh lệch ngày càng tăng giữa khu vực dân tộc vùng biên giới với khu vực nội địa. Trong một thời gian dài do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, nhà nước trung ương thiếu những kế hoạch và chính sách cụ thể. Trong hoạch định phát triển kinh tế đã luôn coi nhẹ các khu vực này khiến cho sự cách biệt trong phát triển giữa các dân tộc ngày càng lớn, sự phát triển mất cân đối giữa khu vực dân tộc thiểu số và đa số, giữa đồng bằng và miền núi ngày càng bộc lộ rõ nét.

Xem tất cả 220 trang.

Ngày đăng: 23/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí