Định Hướng Hoạt Động Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Trong Thời Gian Tới

CHƯƠNG 4

GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG THEO THÔNG LỆ QUỐC TẾ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM


4.1. Định hướng hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian tới

Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam với mục tiêu đến năm 2020 phát triển ổn định, lành mạnh, đa dạng, theo chiều sâu, nâng cao vị thế, vai trò và tầm ảnh hưởng của khu vực ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân, thực hiện tốt vai trò bà đỡ nền kinh tế tại Việt Nam. Để đạt được mục tiêu đề ra, các tổ chức tín dụng, nhất là các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong nước phải có những thay đổi mạnh mẽ về mô hình tổ chức, đổi mới và nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực kinh doanh, năng lực QTRR, năng lực tài chính. Các định hướng về hoạt động tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng được phê duyệt trong đề án phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 theo quyết định số 112/2006/QĐ-TTg như sau:

Bảng 4.1: Định hướng phát triển hoạt động tín dụng (2010 – 2020)


Hệ thống các NHTM Việt Nam

Hoạt động tín dụng cho các NHTM

Chủ động hội nhập kinh tế theo lộ trình phù hợp với khả năng của hệ thống NHTM Việt Nam (yêu cầu về vốn, quy mô, cơ sở hạ tầng, chất lượng

hoạt động).

Chiến lược phát triển tín dụng phải được xây dựng và thực hiện một cách bền vững, có hiệu quả.

Xây dựng định hướng cho từng nhóm ngân hàng một cách hợp lý, hiệu quả và khoa học.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác quản trị rủi ro hoạt động ngân hàng nói chung, QTRRTD nói riêng nhằm cải thiện

chất lượng tín dụng tại các NHTM.

Tăng cường vai trò ảnh hưởng của hệ thống NHTM Việt Nam đối với khu vực và quốc tế.

Xây dựng khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh, phù hợp thông lệ quốc tế, tạo sân chơi bình đẳng cho các NHTM Việt Nam.

Tiếp tục nâng cao chất lượng QTRRTD, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trong từng hệ thống NHTM. Đẩy mạnh thể chế hóa, quy trình hóa các nghiệp vụ tiến đến áp dụng các thông lệ quốc tế và chuẩn

mực Basel trong QTRRTD ngân hàng.

Tiếp tục tái cơ cấu các Tổ chức tín dụng (TCTD) nhằm xây dựng hệ thống NHTM theo hướng tập

trung về chất lượng và giảm về số lượng.

Kiểm soát và xử lý nợ xấu trong toàn hệ thống NHTM.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế tại ngân hàng thương mại Việt Nam - 11

Nguồn: Tổng hợp từ Đề án phát triển ngành ngân hàng - quyết định số 112/2006/QĐ-TTg

Mục đích của QTRRTD là đảm bảo các mức độ rủi ro tín dụng (RRTD) nằm trong khả năng kiểm soát của từng NHTM nói riêng, toàn hệ thống NHTM nói chung. Muốn

thực hiện mục đích trên, hoạt động QTRRTD có các định hướng cụ thể sau: (i) Thay đổi nhận thức của các cấp quản trị trong NHTM, là nhân tố đầu tiên, quyết định để xây dụng và hoàn thiện môi trường QTRRTD hiện tại ở Việt Nam theo xu hướng hiện đại, phù hợp với chuẩn mực quốc tế; (ii) Hoàn thiện cơ cấu tổ chức NHTM theo hướng tập trung cho QTRRTD; (iii) Hoàn thiện các nội dung của khung QTRRTD, đẩy mạnh nội dung xây dựng và hoàn thiện hệ thống đo lường RRTD; (iv) Hoàn thiện hệ thống kiểm toán nội bộ; (v) Đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ nhân sự, đặc biệt là nhân sự quản trị rủi ro cho lĩnh vực tài chính ngân hàng. Bên cạnh đó, yếu tố đầu tư về công nghệ thông tin cần được chú trọng và đầu tư nhằm tạo thuận tiện trong công tác quản trị và vận hành hoạt động của các NHTM; và (vi) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin khách hàng, ngành, thị trường, dự báo biến động kinh tế.

4.2. Điều kiện áp dụng khung năng lực quản trị rủi ro tín dụng

4.2.1. Môi trường pháp lý

Từ thực tế các quy định của pháp luật về phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng còn nhiều bất cập, cần hoàn thiện. Các quy định về QTRRTD gồm các Quyết định, Thông tư do NHNN ban hành. Để đảm bảo tính hiệu lực pháp lý cao của các quy định có liên quan đến giám sát và xử lý tín dụng, pháp luật về vấn đề này cần được tập trung trong văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cao hơn ban hành như Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Nghị định của chính phủ để tránh tình trạng không tương thích trong điều chỉnh cùng một nội dung ở các văn bản pháp luật khác nhau, có hiệu lực pháp lý khác nhau. Ví dụ, quy định về lãi suất cơ bản, mối quan hệ giữa lãi suất cơ bản và lãi suất cho vay trong Luật ngân hàng nhà nước và Bộ luật hình sự với Thông tư 12/2010/TT-NHNN hướng dẫn TCTD cấp tín dụng đồng Việt Nam đối với khách hàng vay theo lãi suất thỏa thuận. Theo khoản 12, Điều 9 Luật Ngân hàng Nhà nước sửa đổi năm 2003 thì lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh. Điều 476, Bộ luật Dân sự 2005 quy định lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại tín dụng tương ứng. Thông tư 12/2010/TT-NHNN cho phép TCTD cho khách hàng vay theo lãi suất thỏa thuận. Nếu xét ở góc độ kinh tế, quy định này thể hiện hướng giao dịch tín dụng trên cơ sở nhu cầu thị trường, nhưng xét ở góc độ tuân thủ nguyên tắc pháp chế thì có sự không đồng bộ trong quy định của các văn bản pháp luật.

Phương pháp phân loại nợ chủ yếu theo quy định hiện hành trong 493 cho thấy những nhược điểm trong quá trình thực hiện. Cho nên cần ban hành các văn bản

hướng dẫn, các chỉ tiêu đánh giá tín nhiệm của các tổ chức định mức quốc tế đã sử dụng, nhưng cần tính đến đặc thù của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Theo quy định, khách hàng có xếp hạng cao (từ A đến AAA), với điều kiện nợ trong hạn và quá hạn dưới 10 ngày thì mới được phân loại nợ nhóm 1. Thực tế, số lượng khách hàng thuộc nhóm 1 chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Phần lớn khách hàng của các TCTD được xếp hạng từ BBB đến C, nếu theo cách phân loại chuẩn mực thì hầu hết sẽ phân loại vào nhóm 2, nhóm 3, từ đó tỷ lệ nhóm 3 đến 5 của các NHTM tăng cao hơn nhiều so với bản chất loại nợ thực tế. Do đó, nếu chỉ áp dụng theo đúng các quy định theo chuẩn mực mà không tính tới thực tiễn áp dụng thì ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Các nội dung khác như giới hạn cấp tín dụng cụ thể và không xác định giới hạn đang dự định gộp vào thì cần cân nhắc tiếp tục theo hướng tách bạch do các hình thức cấp tín dụng là khác nhau, rủi ro được định lượng khác nhau. Đối với các trường hợp không xác định giới hạn, hay trường hợp cho bảo lãnh đã được NHNN chấp nhận bằng văn bản, các trường hợp cấp tín dụng theo chỉ định của chính phủ (thông qua chỉ đạo của NHNN), cấp tín dụng hỗ trợ các TCTD trong tình trạng kiểm soát đặc biệt, tránh nguy cơ rủi ro toàn bộ hệ thống ngân hàng cần có những quy định cụ thể. Ngoài ra, do sự chồng chéo về văn bản, quy định, thông tư (Chính phủ, NHNN ban hành) nên rất khó cho các TCTD trong việc áp dụng pháp luật. Để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật nên hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý cơ quan nhà nước có thẩm quyền cao nhất ban hành (Chính phủ). Ban hành các văn bản hướng dẫn việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm ở từng ngân hàng cũng như thành lập và hoạt động của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập. Cuối cùng, thiết lập khuôn khổ pháp lý cho lĩnh vực kinh doanh ngân hàng theo quốc tế là không đủ, mà pháp luật, thể chế của các thành phần kinh tế khác phải theo các thông lệ quốc tế, tổng thể toàn nền kinh tế cần phải được hội nhập.

4.2.2. Môi trường kinh tế

Hoàn thiện cơ chế quy định quản lý và các biện pháp thận trọng trong lĩnh vực ngân hàng theo hướng phù hợp với nguyên tắc thị trường, có biện pháp khuyến khích đồng thời bắt buộc các NHTM tuân theo nhằm nâng cao năng lực QTRRTD. Một trong những điểm yếu của các NHTM vẫn còn sự tồn tại các khoản tín dụng ưu đãi, mang tính trợ cấp, tín dụng chỉ định, phi thương mại dưới sự bảo trợ của Chính phủ, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các NHTM.

Cơ sở thị trường tài chính là thị trường vốn, Chính phủ, các ngành cần phối hợp và phát triển thị trường vốn theo hướng tạo điều kiện đa dạng hóa các chủ thể tham gia, các công cụ, phương pháp giao dịch trên thị trường, đặc biệt là các sản phẩm phái sinh phòng ngừa rủi ro. Xem xét và giảm bớt các rào cản pháp luật, những quy định không cần thiết gây cản trở cho các nhà đầu tư nước ngoài, bổ sung các khuôn khổ về thanh lý, phá sản ngân hàng, xây dựng nguyên tắc kỷ luật thị trường cho các ngân hàng, cổ đông và đối tượng liên quan.

4.2.3. Chính sách quản lý hoạt động đối với các ngân hàng thương mại

Trong quá trình triển khai Basel II, NHNN đóng vai trò chủ trì, điều phối, đưa ra các hướng dẫn và tư vấn kịp thời xung quanh các vấn đề liên quan đến Basel

II. NHNN (bao gồm Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng) cần thực hiện xây dựng các văn bản hướng dẫn triển khai Basel II theo các giai đoạn tương ứng với thời điểm triển khai thực hiện Basel II. Các văn bản cần ban hành từ thông báo kế hoạch triển khai, hướng dẫn triển khai về tỷ lệ vốn, định nghĩa vốn, mức độ rủi ro trong sổ kế toán ngân hàng, giám sát hệ thống XHTD nội bộ, các yêu cầu bắt buộc đối với các khoản vay đặc biệt, cách áp dụng các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng, hướng dẫn thanh tra, giám sát hay công bố thông tin theo các trụ cột của Basel II. Các văn bản hướng dẫn về Basel II cần phát triển phù hợp với điều kiện thị trường Việt Nam, dựa trên các nhận định về tính khả thi, tính chính xác của đo lường về vốn và đem tới động lực cho các NHTM tiếp cận các cơ sở QTRR ưu việt.

Một số điều kiện trong Basel II mà khi ban hành các văn bản hướng dẫn cần tuân theo: Một là, một số yếu tố rủi ro trong các đơn vị kinh doanh không lớn có thể loại trừ ra khỏi các yêu cầu về vốn khi xác định phù hợp với cách tiếp cận tiêu chuẩn hóa (§259); Hai là, khái niệm liên quan đến các quyền đòi không được ưu tiên trực thuộc đối với các công ty, chính quyền và các ngân hàng sẽ được ấn định mức LGD. Tùy theo sự thận trọng của các quốc gia, các tổ chức giám sát có thể chọn, khai thác định nghĩa rộng hơn về sự không ưu tiên(§288); Ba là, quyết định liên quan đến kỳ hạn (M), các tổ chức giám sát quốc gia có thể để yêu cầu tất cả các ngân hàng trong quyền phán xét (dù là tiếp cận theo cơ bản hay nâng cao) được tự quyết định, thường sẽ là 2.5 năm (§318); Bốn là, trong quy định đối với khách hàng bán lẻ và PSE (Public Security Entity- Cơ quan công), theo quy định là 90 ngày đối với khách hàng quá hạn, tổ chức giám sát có

thể thay thế con số cho đến 180 ngày đối với sản phẩm khác nhau như là một điều kiện mở để từng khu vực áp dụng cho phù hợp (§452); Năm là, đối với từng loại TSĐB cụ thể, có thể quy định tỷ lệ rủi ro thấp hơn so với yêu cầu. Từng tổ chức giám sát sẽ xác định những tài sản thế chấp như thế nào đáp ứng các điều kiện đó theo cách tiếp cận xếp hạng nội bộ cơ bản và nâng cao (§521); Sáu là, cần xây dựng hướng dẫn liên quan đến các khái niệm về không trả được nợ (§454); Bảy là, theo cách tiếp cận dựa trên xếp hạng nội bộ (IRB), các quy định về dự phòng chung có trong vốn cấp 2 (§43); Tám là, nhóm sản phẩm liên quan đến bất động sản thương mại khi giám sát sẽ được phân loại theo nhóm riêng (§228). Đối với các khoản vay thuộc nhóm bán lẻ, vay hạn mức thì cách giám sát hay QTRR cũng thực hiện theo tính chất của chúng (§234). Ngoài ra, một số các điều kiện liên quan đến công tác QTRRTD cụ thể trong Basel II (§58,229, 238, 341), các điều kiện này nhìn chung vẫn mục đích hỗ trợ cho các quốc gia sẵn sàng hơn theo quy định chung, đưa ra các văn bản, chuẩn bị các chính sách phù hợp để Basel II có thể áp dụng nhằm nâng cao năng lực QTRRTD cho các ngân hàng.

Cải tiến, xây dựng và đổi mới hệ thống thanh tra ngân hàng từ cơ sở pháp lý, mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, hệ thống cơ sở hạ tầng. Tăng cường trao đổi thông tin giữa cơ quan giám sát ngân hàng trong nước và nước ngoài để thực hiện giám sát chặt chẽ các hoạt động của TCTD, sẵn sàng phối hợp kiểm tra mang tính khu vực và toàn cầu, đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật và công nghệ thanh tra, giám sát tiên tiến. NHNN không can thiệp quá sâu vào hoạt động của các NHTM, chỉ can thiệp khi có vấn đề đặc biệt, vi phạm nghiêm trọng, việc giám sát theo hướng quy định trong các tiêu chuẩn Basel II.

Các điều kiện yêu cầu đối với cơ quan giám sát ngân hàng là: Mục tiêu hoạt động của cơ quan giám sát ngân hàng cần phải được xác định rõ ràng, các cơ quan giám sát phải bảo đảm kỷ luật thị trường bằng cách tạo động lực cho các ngân hàng áp dụng các chuẩn mực tốt về quản trị doanh nghiệp. Cơ quan giám sát phải có sự độc lập về hoạt động, phương tiện và quyền thu thập thông tin từ xa, thông tin tại chỗ, có thẩm quyền thực hiện các quyết định của mình, phải hiểu bản chất kinh doanh của các ngân hàng và đảm bảo trong chừng mực có thể là các rủi ro mà các ngân hàng phải gánh chịu được quản lý. Các cơ quan giám sát phải đảm bảo ngân hàng có đủ nguồn lực để bù đắp rủi ro, bao gồm vốn, kỹ năng quản

trị, hệ thống kiểm soát hữu hiệu và các hồ sơ kế toán. Cơ quan giám sát ngân hàng phối hợp tốt với cơ quan giám sát tài chính khác trong nước và ngoài nước để giám sát các hoạt động tài chính phi ngân hàng, các hoạt động ngân hàng quốc tế. Toàn bộ rủi ro của từng ngân hàng phải được đánh giá, theo dõi chặt chẽ và các nguồn lực giám sát phải được phân bổ hợp lý. Tất cả các rủi ro của ngân hàng phải được nhận biết, đo lường, giám sát, kiểm soát được trước hết từ bản thân ngân hàng thông qua các công cụ QTRR và từ các cơ quan giám sát ngân hàng thông qua các nghiệp vụ giám sát từ xa, thanh tra ngân hàng tại chỗ dựa trên cơ sở rủi ro một cách liên tục.

NHNN cần phải nêu rõ các điều kiện tiên quyết để có thể xây dựng một hệ thống xếp hạng tín dụng độc lập đáp ứng và tiến gần đến các tiêu chuẩn quốc tế. Những ngân hàng nào không đạt yêu cầu để tự xây dựng thì sẽ phải sử dụng kết quả xếp hạng tín nhiệm độc lập do NHNN chỉ định. Định kỳ NHNN yêu cầu các NHTM cung cấp bổ sung kịp thời các tiêu chí xếp hạng dựa trên chuẩn mực Basel II. Tăng cường quy chế công bố thông tin, nâng cao chất lượng và mức độ tin cậy của thông tin thông qua cải thiện chất lượng và hiệu quả của kiểm toán độc lập.

Đối với các NHTM để triển khai được khung năng lực QTRRTD theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II phải tuân theo những điều kiện nhất định: Một là, các chuẩn mực QTRR trong ngân hàng phải đồng bộ trên toàn hệ thống. Các NHTM cần có sự chuẩn bị sẵn sàng về vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng CNTT, hệ thống dữ liệu đủ và chất lượng theo yêu cầu của Basel II; Hai là, kiểm tra, kiểm soát nội bộ: NHTM căn cứ và các văn bản pháp luật chung ban hành từ NHNN, cần xây dựng hệ thống kiểm tra, KTNB theo cấp độ từ tổng thể đến chi tiết, theo đối tượng kiểm soát (HĐQT, BĐH, BKS) để giám sát thường xuyên về hệ thống xếp hạng, rủi ro, thẩm định, tính hiệu quả, hợp lý của hệ thống xếp hạng, đánh giá thường xuyên các trạng thái tuân thủ theo Basel II. Xây dựng hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu theo trụ cột 3 về kỷ luật thị trường; Ba là, đào tạo đội ngũ nhân lực cho NHNN và NHTM (hỗ trợ đào tạo, học tập chuyên gia từ các ngân hàng BIS); Bốn là, nâng cao chất lượng thông tin tín dụng, đảm bảo tính chính xác, cập nhật của thông tin; Năm là, thống nhất khi ban hành các văn bản hướng dẫn liên quan đến hệ thống XHTD nội bộ, hoạt động của các tổ chức XHTD độc lập (NHNN nêu rõ các điều kiện tiên quyết để có thể xây dựng hệ thống XHTD độc lập, đáp ứng và tiến gần các tiêu chuẩn quốc tế);

4.3. Hệ thống giải pháp đối với các ngân hàng thương mại để nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng

Hệ thống nhóm các giải pháp đề xuất dựa trên cơ sở từng thành phần khung QTRRTD đề cập tại chương 2 và thực trạng 8 nhân tố năng lực tại các NHTM đề cập tại Chương 3 nhằm nâng cao năng lực QTRRTD tại các NHTM Việt Nam.

4.3.1. Giải pháp đối với năng lực xây dựng và vận hành các công cụ đo lường rủi ro tín dụng (CCDL)

Khung năng lực QTRRTD theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II mà tác giả đề xuất trong chương 2, trong đó có năng lực xây dựng và vận hành các công cụ đo lường rủi ro tín dụng nhằm bổ sung hạn chế của các phương thức đo lường RRTD truyền thống. Để xây dựng một công cụ/mô hình định lượng tổn rủi ro tín dụng, tổn thất tín dụng đáp ứng được tính chuẩn mực theo thông lệ quốc tế, đáp ứng kỳ vọng của ngân hàng về tính khả thi, phù hợp, hiệu quả thì bản thân mô hình không thể xây dựng một cách độc lập, mà phải được thiết kế như một cấu phần không thể tách rời trong mô hình tổng thể chung về QTRRTD. Theo thông lệ quốc tế và các chuẩn mực Basel II, bộ công cụ đo lường RRTD của các NHTM cần các cấu phần: (i) Hệ thống XHTD nội bộ; (ii) Lượng hóa rủi ro tín dụng; (iii) Hệ thống các báo cáo. Để nâng cao năng lực đo lường

rủi ro tín dụng, các NHTM cần tập trung xây dựng, hoàn thiện các cấu phần sau:

Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ

Hệ thống XHTD nội bộ là cơ sở đầu tiên để giúp các NHTM đo lường rủi ro của một khách hàng, nhưng bản thân hệ thống XHTD nội bộ lại bộc lộ nhiều điểm hạn chế. Kết quả xếp hạng vẫn còn mang nhiều tính chất chủ quan, do còn nhiều nhân tố định tính trong bộ các tiêu chí xếp hạng, kết quả này khó có thể làm căn cứ để xây dựng các thước đo lượng hóa rủi ro, hỗ trợ ngân hàng tính toán chính xác tổn thất dự kiến (EL) và yêu cầu vốn tối thiểu bù đắp rủi ro tín dụng được. Các NHTM cần rà soát, tiếp tục hoàn thiện hệ thống XHTD nội bộ, đảm bảo sự hợp lý các tiêu chí và trọng số để cho kết quả chính xác, phù hợp với khẩu vị rủi ro của từng ngân hàng. Trước mắt, các NHTM hoàn thiện hệ thống XHTD nội bộ theo phương pháp tiếp cận nội bộ cơ bản (FIRB) hoặc nâng cao (AIRB) theo chuẩn Basel II, các tiêu chí phải có là: (i) Danh mục các tiêu chí để chấm điểm khách hàng cần chọn lọc có cơ sở để bổ sung, thu thập thông tin định lượng chính xác, phân loại và áp dụng các nhóm khách hàng khác nhau; (ii) Xác định trọng số

tính điểm của từng chỉ tiêu; (iii) Các chỉ tiêu tài chính, phi tài chính chấm điểm khách hàng doanh nghiệp cho các doanh nghiệp với quy mô khác nhau; và (iv) Các bảng xếp hạng khách hàng khác nhau cho từng nhóm khách hàng. Có như vậy thì việc XHTD mới thực sự là công cụ hạn chế rủi ro tín dụng và là căn cứ để định giá theo rủi ro (risk based pricing) của NHTM.

Lượng hóa rủi ro tín dụng

Xây dựng phương pháp đo lường rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II là xây dựng mô hình dự báo và lượng hóa các cấu phần rủi ro tín dụng (PD, LGD, EAD).

Hệ thống XHTD nội bộ đóng vai trò là nguồn dữ liệu đầu vào cho việc xây dựng các mô hình dự báo và lượng hóa rủi ro tín dụng. Kết quả của hệ thống XHTD nội bộ được ma trận chuyển đổi (Migration Matrix) sang tính toán các thông số PD, LGD, EAD, kết hợp với đánh giá mức độ tương quan, đa cộng tuyến của khoản vay bị vỡ nợ (Thông thường mức độ tương quan, đa cộng tuyến về vỡ nợ hay không trả được nợ vay ngân hàng có sự gia tăng đáng kể đối với các doanh nghiệp cùng ngành nghề kinh doanh, khu vực địa lý).

Theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II, việc tính toán PD cũng phải theo quy trình lượng hóa tương tự như quy trình xây dựng hệ thống XHTD nội bộ, bao gồm:

(i) Lựa chọn phương pháp luận dự báo phù hợp (Phương pháp mô hình thống kê, phương pháp chuyên gia ràng buộc, và Phương pháp chuyên gia); (ii) Xây dựng quy trình lượng hóa PD (lựa chọn mẫu, ước lượng mối quan hệ tương quan, khớp mối quan hệ tương qua, áp dụng mới quan hệ tương quan vào danh mục tín dụng). Từ những dữ liệu trên nhập vào một mô hình định sẵn, từ đó tính được chính xác mức tổn thất kỳ vọng (EL) và tổn thất ngoài dự kiến (UL) theo mô hình tuyến tính/mô hình probit.

Để thực hiện được các công việc này, các NHTM cần phải đặt mục tiêu tối thiểu tăng dần từ 60% (2016) đến 75% (2018) nhóm các danh mục tín dụng bắt đầu áp dụng hệ thống XHTD nội bộ chuyển dần từ phương pháp tiếp cận SA sang IRB vào năm 2018 (so sánh với OCBC Singapore 70 -85% nhóm các danh mục tín dụng). Ngoài ra, để đảm bảo mô hình định lượng dự kiến chính xác về EL và UL, các NHTM cần thực hiện phép thử Stress-testing (dự kiến chính xác số tiền tổn thất mà ngân hàng đối mặt trong các điều kiện xấu nhất của thị trường) và phép thử Back-testing (đảm bảo hệ thống dự báo chính xác kết quả, có hiệu lực). Các NHTM chuẩn bị các công cụ định lượng liên quan, căn cứ trên nền tảng công nghệ hiện tại của ngân hàng, tham khảo các giải pháp của các ngân hàng tiên tiến.

Hệ thống các báo cáo/ kết quả dự báo

Kết quả từ mô hình dự báo và lượng hóa rủi ro tín dụng, Stress-testing, Back testing sẽ hỗ trợ công tác QTRRTD như:

(i) Việc xếp hạng tín dụng đối với khách hàng nhằm đánh giá xác suất không trả được nợ, tính mức tổn thất dự kiến, từ đó, định giá khoản vay (risk-based pricing) khác nhau đối với từng loại khách hàng. Để bù đắp RRTD, ngân hàng thu tiền lãi vay theo lãi suất các ngân hàng áp dụng cho thấy mức độ rủi ro mà ngân hàng phải chịu.

(ii) Việc xác định chính xác EL sẽ giúp ngân hàng xác định chính xác được giá trị khoản vay. Điều này sẽ phục vụ hiệu quả cho việc thực hiện quy trình swap tín dụng, hay chứng khoán hóa các khoản vay của các NHTM sau này. Đây là một xu thế tất yếu mà các NHTM Việt Nam sẽ hướng tới vì swap tín dụng và chứng khoán hóa chính là những công cụ hiệu quả nhất để san sẻ rủi ro và tạo tính linh hoạt trong quản lý danh mục các khoản cho vay của mỗi NHTM.

(iii) Căn cứ vào mức tổn thất kỳ vọng, ngân hàng sẽ trích dự phòng cho các khoản tổn thất dự kiến. Đây là tiện ích mà các NHTM Việt Nam chưa sử dụng mặc dù 10 NHTM Việt Nam triển khai Basel II đã xây dựng được mô hình và tính toán được PD. Các NHTM vẫn sử dụng trích lập dự phòng theo Quyết định số 493 (trích lập dự phòng theo nhóm nợ, chưa theo hạng khách hàng). Việc phân loại nợ, trích lập dự phòng theo chính sách, quy trình đồng nhất, tuân thủ chuẩn quốc tế Basel II giúp các ngân hàng nhận biết sớm các khoản tín dụng có nguy cơ xảy ra rủi ro, từ đó có giải pháp để hạn chế nợ xấu.

(iv) Kết quả mô hình dự báo và lượng hóa giúp ngân hàng xây dựng mô hình đo lường rủi ro danh mục tín dụng theo phương pháp QTRR danh mục chủ động.

(v) Việc xác định được tổn thất ước tính, đặc biệt là xác định được PD - xác suất khả năng vỡ nợ của khách hàng sẽ giúp ngân hàng nâng cao được chất lượng việc giám sát và tái xếp hạng khách hàng sau khi cho vay.

Nguồn nhân lực vận hành các công cụ đo lường rủi ro tín dụng

Muốn xây dựng, phát triển, vận hành các công cụ đo lường rủi ro tín dụng, các NHTM cần đội ngũ nhân chuyên trách đảm nhiệm việc nghiên cứu, xây dựng hay vận dụng các mô hình để lượng hóa rủi ro. Bộ phận này có chức năng độc lập, phân tách quyền hạn và trách nhiệm với các cán bộ kinh doanh nhằm đảm bảo tính khách quan của các kết quả đo lường, bao gồm:

(i) Đội ngũ chuyên gia phân tích có kinh nghiệm và hiểu biết sâu sắc về hoạt động kinh doanh ngân hàng, xây dựng danh mục đầu tư tín dụng ngân hàng, có những thay đổi cần thiết để đảm bảo hệ thống XHTD là phù hợp với các chính sách, chiến lược tín dụng của ngân hàng;

(ii) Lượng hóa rủi ro tín dụng theo các mô hình thống kê, xác suất đòi hỏi các chuyên viên được đào tạo nền tảng thống kê, kiến thức về kinh tế lượng, mô hình. Đội ngũ này đảm bảo xây dựng mô hình thống nhất, phù hợp với đặc điểm CSDL của ngân hàng, phát triển hệ thống theo đúng quy định của cơ quan quản lý và thông lệ quốc tế (Basel I, II, III). Hiện nay, các NHTM Việt Nam đang phụ thuộc vào các nhà tư vấn và phần mền, chưa có nhân lực đáp ứng tiêu chuẩn;

(iii) Các NHTM cần xây dựng quy trình kiểm định, định kỳ để đảm bảo mức độ đo lường chính xác, khách quan của các chỉ tiêu trong hệ thống XHTD, các mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng.

4.3.2. Giải pháp đối với năng lực tài chính (NLTC)

Tăng vốn đáp ứng các chuẩn mực vốn của Basel II, giúp ngân hàng sẵn sàng chống đỡ, giảm thiểu khi rủi ro hệ thống xảy ra. Các giải pháp tăng vốn cũng chính là tăng năng lực đối phó rủi ro, năng lực quản trị rủi ro tín dụng cho NHTM.

Thị trường chứng khoán và kinh tế vĩ mô có dấu hiệu phục hồi nên việc phát hành cổ phiếu để tăng vốn hiện nay khá thuận lợi. Việc tăng vốn không chỉ giúp ngân hàng mở rộng hạn mức tín dụng với khách hàng, bổ sung vốn cho vay trung dài hạn, góp vốn mua cổ phần, mà tăng vốn còn là yêu cầu tất yếu để ngân hàng đáp ứng các tiêu chuẩn quản trị rủi ro ngày càng khắt khe. Theo tiêu chuẩn Basel II thì nhiều ngân hàng (trong số 10 NHTM áp dụng thí điểm Basel II của Việt Nam) sẽ phải tăng vốn mới đáp ứng được yêu cầu mới về vốn tối thiểu (CAR), vì mức CAR hiện hành của các NHTM sẽ giảm mạnh khi áp dụng Basel

II. Theo ước tính, việc áp dụng Basel II có thể sẽ khiến hệ số CAR của các ngân hàng giảm 10-20%. Trong khi đó, hệ số CAR của nhiều ngân hàng, kể cả ngân hàng lớn hiện chỉ ở 9-10%, như vậy nguy cơ không đủ vốn yêu cầu tối thiểu rất cao, các NHTM phải có các giải pháp nhằm nâng cao khả năng tài chính:

Giải pháp nâng cao năng lực vốn bằng cách đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư từ các cá nhân và tổ chức kinh tế bên ngoài, bởi “cổ phần” là sức mạnh tổng hợp đang nằm trong mọi thành phần kinh tế và sẽ

tạo ra sức mạnh, tạo ra quá trình tăng vốn điều lệ một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất cho các NHTM nếu các ngân hàng biết khai thác và phát huy.

Trong bối cảnh nguồn lực trong nước hạn chế, việc tăng vốn với các ngân hàng là không đơn giản. Đối với các NHTM chưa có đối tác chiến lược nước ngoài (như BIDV), việc tìm kiếm đối tác chiến lược là phương án khả dĩ nhất để tăng vốn. Còn với các ngân hàng đã có đối tác chiến lược, thực hiện việc nới room cho nhà đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy, các ngân hàng sau khi bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, bên cạnh việc tăng quy mô vốn, các ngân hàng còn tận dụng được nhiều kinh nghiệm quản lý, QTRR tiên tiến trên thế giới. Đây là lý do, Vietinbank và Vietcombank, MBBank đề xuất Chính phủ nới room cho đối tác ngoại. Các NHTM trong nhóm có quy mô nhỏ hơn như VPBank (tăng lên 8056 tỷ), TCB (8878 tỷ đồng), Maritimebank (11.750 tỷ đồng), ACB (9.377 tỷ đồng),VIB cũng có kế hoạch tăng vốn điều lệ nhằm đáp ứng yêu cầu Basel II.

Năm 2015 là năm cuối cùng ngành ngân hàng thực hiện đề án tái cơ cấu hệ thống các TCTD giai đoạn 2011- 2015 [1], nhiều giải pháp quyết liệt và mạnh tay đang được NHNN thực hiện để quá trình tái cấu trúc đề ra. Thời gian qua, thị trường đã chứng kiến nhiều thương vụ sáp nhập thành công, 3 ngân hàng bị mua lại với giá 0 đồng (Habubank, Oceanbank, GPBank), hệ thống được thanh lọc còn 34 ngân hàng và thị trường đã được sắp xếp lại theo một trật tự mới. Một số NHTM lớn như Vietinbank, BIDV, SCB sau khi sáp nhập một số ngân hàng khác vào thì vốn điều lệ đã tăng lên trong năm 2015. Xét về số vốn điều lệ trong số 34 ngân hàng hiện nay, có thể chia làm 3 top. Top 1 với 9 ngân hàng có vốn lớn hơn 10.000 tỷ đồng; Top 2 gồm 9 ngân hàng có vốn từ 5.000 – 10.000 tỷ đồng và Top 3 là còn lại với 16 ngân hàng có vốn điều lệ dưới 5.000 tỷ đồng.

Nâng cao năng lực tài chính trong khung năng lực QTRRTD cho các NHTM bằng giải pháp sáp nhập, hợp nhất, hệ thống NHTM Việt Nam cần: (i) Các NHTM tự đánh giá tiềm năng chính ngân hàng mình và các ngân hàng khác trên thị trường tài chính Việt Nam nhằm xây dựng kế hoạch sáp nhập nếu cần thiết;

(ii) Các NHTM cần thực thi một cách tự nguyện quá trình sáp nhập, hợp nhất, xem đây là một tiến trình tất yếu để nâng cao năng lực tài chính; (iii) Các ngân hàng cần nắm chắc các vấn đề trong quá trình thực hiện hợp nhất, sáp nhập để có kế hoạch mang tính khả thi, tránh sự dàn trải và thiếu hiệu quả. Bên cạnh việc tăng năng lực tài chính, các NHTM cần nâng cao tính chủ động trong hoạt động kinh doanh, tự ý thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xây dựng hệ thống quản trị rủi ro.

Trong tiêu chuẩn mới của Basel III (6/2011) hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR được giữ nguyên ở mức 8% nhưng yêu cầu vốn chủ sở hữu của các ngân hàng phải tăng từ 4% lên 6% (với 4.5% phải là vốn của các cổ đông phổ thông). Bên cạnh đó, Basel III còn quy định thêm về các quỹ trích lập dự phòng và hệ số đòn bảy là những yêu cầu mới chưa được đề cập trong Basel II. Các yêu cầu này sẽ là những thách thức rất lớn đối với các NHTM Việt Nam khi còn đang ở lộ trình đáp ứng các chuẩn mực vốn của Basel II, các NHTM nên nghiên cứu để chuẩn bị để có thể đáp ứng các tiêu chuẩn Basel III, chứ không chỉ đi đúng theo lộ trình Basel I, II, III. Các khuyến nghị về vốn cho các NHTM để thực hiện theo lộ trình này có thể là:

(i) Xây dựng nền tảng vốn quy định sao cho chất lượng và mức vốn trong ngân hàng tăng trong điều kiện kinh tế tốt và có thể sử dụng trong giai đoạn tài chính và kinh tế khó khăn;

(ii) Nghiên cứu tương tác giữa định giá và đòn bẩy tài chính nhằm đưa ra một thước đo đơn giản, không dựa trên rủi ro, ví dụ như đòn bảy tài chính hay thiết lập và nắm giữ tài sản có tính thanh khoản cao tối thiểu;

(iii) Thực hiện Stress-Testing như là một phần quan trọng kiểm tra giám sát trụ cột II, đánh giá tính thỏa đáng của đệm vốn ngân hàng cao hơn vốn quy định tối thiểu;

(iv) Nghiên cứu phát triển khung yêu cầu vốn tối thiểu cho rủi ro tín dụng, chi tiết đến từng hạng mục trong QTRRTD: vốn cho hạn mức danh mục tín dụng, theo từng khách hàng/nhóm khách hàng, ngành nghề, lĩnh vực căn cứ trên mục tiêu phát triển chiến lược của ngân hàng.

4.3.3. Giải pháp đối với năng lực quản trị điều hành (QTDH)

Năng lực quản trị điều hành tại các NHTM Việt Nam bao gồm khả năng xây dựng chiến lược/chính sách tín dụng phù hợp và tái cấu trúc hệ thống cơ cấu tổ chức, bộ máy QTRRTD. Để nâng cao năng lực quản trị điều hành theo thông lệ và chuẩn mực Basel II, các giải pháp NHTM cần thực hiện là:

Thiết lập và hoàn thiện khẩu vị rủi ro toàn ngân hàng

Thực tế phân tích cho thấy khẩu vị rủi ro tại các NHTM hiện nay đã có nhưng chưa cụ thể hóa, thống nhất và sát với thông lệ quốc tế. Do đó, để nâng cao năng lực quản trị điều hành, các NHTM trước hết cần coi trọng việc xây dựng và tuyên bố Khẩu vị rủi ro chính thức, thống nhất toàn ngân hàng đối với tất cả các loại rủi ro trọng yếu (rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/04/2022