kinh doanh ch nh xác và có định hướng. Người điều hành phải quyết định nhanh chóng cả khi không biết đúng hay sai.
Sự cần thiết của nhiệt tình
Khách sạn là một loại hình thức kinh doanh thường xuyên có nhiều đột biến, người điều hành, nhân viên muốn đạt hiệu quả tốt thì phải linh hoạt xử lý mọi việc xảy ra bất thình lình một cách kịp thời. Do đó, đòi hỏi ở họ một sự nhiệt tình liên tục và tự giác cao. Họ phải tự mình quyết định giờ giấc làm thêm của mình và luôn phải nghĩ rằng hết việc chứ không phải hết giờ.
Nhân viên khách sạn phải có một thể lực tốt, vì nhịp độ tiến triển của khách sạn luôn đòi hỏi một sự quan tâm liên tục lâu dài chứ không ngắt quãng, mỗi ngày có một vị khách mới, những bữa ăn khác nhau và những hội nghị đang gần kề. Vì thế khách sạn phải chứng minh được khả năng của mình với những lượt khách mới.
1.2.3. Môi trường kinh doanh khách sạn
Khách sạn là một hàng hóa
Sự trang hoàng và trình bày trong phòng khách và những nơi công cộng của một số khách sạn thường đầy đủ và tương tự nhau, vì thế mà khách rất khó quyết định nên chọn khách sạn này hay khách sạn kia.
Tuy vậy, cũng có sự khác nhau: Kiến trúc và địa thế có thể tạo cho một số khách sạn những nét riêng biệt và đó là những điều kiện thuận lợi cho việc cạnh tranh. Nếu các khách sạn không thu hút khách bằng sự khác biệt thì sẽ cạnh tranh bằng giá cả thấp nhất và chất lượng dịch vụ tốt nhất.
Xây dựng quá nhiều khách sạn
Khuynh hướng xây dựng quá nhiều trong công nghiệp khách sạn tạo ra sự quá tải trong kinh doanh khách sạn, tác động đến việc làm giảm giá cả và giảm chênh lệch lợi nhuận giữa giá bán và giá vốn.
Việc quy vùng và những giới hạn môi trường có thể loại trừ việc phát triển khách sạn một số nơi, nhưng thật ra, đó không phải là sự cản trở chủ yếu. Do đó, cứ mỗi khi thuê khách sạn và giá phòng tăng thì khuynh hướng phát triển khách sạn lại bùng nổ. Một khi việc cung cấp phòng ốc phát triển cao, trong lúc nhu cầu thuê
phòng tăng vừa phải, thì kết quả là giá phòng sẽ bị tác động. Lợi nhuận của tất cả khách sạn sẽ bị giảm sút, có khi kéo dài trong nhiều năm.
Khi tình trạng quá tải xảy ra, những khách sạn đòi hỏi những chi phí cao nhưng kém hiệu quả về chất lượng dịch vụ thường bắt đầu phải chịu lỗ, khách hàng không quay lại và vỡ nợ.
Phòng ốc cũng là sản phẩm dễ hư hỏng
Nếu phòng khách sạn không được thuê ngày hôm nay, thì ngày mai không thể cho thuê phòng đó hai lần cùng lúc được. Nếu bỏ mất một ngày không cho thuê là sản phẩm phòng ốc bị hư hỏng một ngày và ngày mai không lấy lại được tiền cho thuê sản phẩm ấy của ngày hôm nay. Khi một khách sạn được cất lên, thì tất cả các phòng của khách sạn ấy được mặc nhiên coi như để phục vụ. Đó là sản phẩm mà không được thuê thời gian nào, xem như bị hư hỏng thời gian đó.
Khách sạn phải làm sao cho nhu cầu đi theo khả năng cung ứng cố định của khách sạn. Khi khách sạn đã đầy khách, thay vì không nhận thêm khách, khách sạn có thể thuyết phục khách trở lại vào thời điểm khác khi còn phòng phục vụ. Khi nhu cầu tăng có thể tăng giá phòng đến mức cao có thể chấp nhận được và khi nhu cầu giảm thì phải tìm cách thu hút các loại khách quan tâm đến giá bằng giá đặc biệt.
Trong trường hợp mà nhu cầu luôn biến đổi nhưng khả năng cung ứng lại cố định như khách sạn thì cách t nh như sau: nếu hôm nay số lượng khách gấp đôi muốn thuê phòng, nhưng ngày mai hoàn toàn không có khách thì tỷ lệ phòng được phân chia hôm nay là 100% và ngày mai là 0%. Tính bình quân trong hai ngày là 50%, con số này không phải tốt lắm. Nếu thuyết phục một nữa khách của ngày hôm nay chuyển sang ngày mai thì tỷ lệ nói trên có thể phân chia là 100% cho cả hai ngày. Ví dụ trên cho thấy khả năng vận động nhu cầu của một khách sạn sẽ quyết định đến sự thành công hay thất bại về mặt tài chính của một khách sạn đó. Quan hệ giữa nhu cầu biến thiên và cung ứng cố định là một trong những đặc điểm chính của ngành kinh doanh khách sạn.
1.3. Cơ sở lý luận về chất lượng dịch vụ và sự hài lòng
1.3.1. Cơ sở lý luận về sản phẩm dịch vụ
Khái niệm dịch vụ
Dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là những thứ tương tự như hàng hóa nhưng là phi vật chất.
Theo chương trình đào tạo chăm sóc khách hàng của Việt Nam Airline: “Dịch
vụ là một quá trình bao gồm một loạt các hoạt động ít hay nhiều là vô hình, mà các hoạt động này thường xảy ra trong quá trình giao dịch giữa khách hàng và người cung ứng dịch vụ và/ hoặc các sản phẩm hữu hình, và/ hoặc hệ thống của người cung ứng dịchvụ mà được xem là giải pháp cho các vấn đề của khách hàng. Trong ngành dịch vụ, khách hàng mua “cảm nhận (experience)” hoặc mua “sự thực hiện (performance)”.
V dụ về khách hàng mua sự cảm nhận: Đi xem chiếu bóng, đi nghỉ hè, đi xem một trận thể thao.
V dụ về khách hàng mua sự thực hiện: Phẫu thuật đầu gối, đi máy bay, dịch vụ giáo dục, dịch vụ chăm sóc cây cảnh.
Theo giáo trình Marketing dich vụ của PGS. TS Hà Nam Khánh Giao: “Dịch vụ là những công việc, quy trình và những hoạt động. Trong đó:
o Bản chất là một sản phẩm
o Liên quan nhiều hơn đến khách hàng trong quá trình sản xuất
o Con người được xem như một bộ phận của sản phẩm
o Khó giữ vững các tiêu chuẩn về kiểm soát chất lượng khó hơn.”
Như vậy, quan niệm về dịch vụ của doanh nghiệp sẽ hình thành nên các mối tương tác qua lại giữa doanh nghiệp và khách hàng.
Đặc điểm của dịch vụ
Dịch vụ là một quá trình hoạt động, quá trình đó diễn ra theo một trình tự bao gồm nhiều khâu, nhiều bước khác nhau, mỗi khâu là những dịch vụ nhanh hay dịch vụ độc lập và dịch vụ chính. Mỗi loại dịch vụ mang lại cho người tiêu dùng, một giá trị nào đó. Giá trị của dịch vụ gắn liền với lợi ích mà họ nhận được từ dịch vụ. Giá trị này thỏa mãn giá trị mong đợi của người tiêu dùng, nó có quan hệ mật thiết với
lợi ích tìm kiếm và động cơ mua dịch vụ. Những giá trị của hệ thống dịch vụ được gọi là chuỗi giá trị. Chuỗi giá trị mang lại lợi ích tổng thể cho người tiêu dùng.
Đối với dịch vụ, người tiêu dùng có thể phải đến nơi mà ở đó dịch vụ được “tạo ra”. Nghĩa là, dịch vụ được bán hay cung cấp cho khách hàng trước khi họ cảm nhận được lợi ch thực sự của nó. Ch nh điều này làm cho khách hàng cảm thấy liều lĩnh khi mua những dịch vụ, do vậy để mua một dịch vụ hay một sản phẩm kèm theo dịch vụ, khách hàng phải được thông tin đầy đủ những gì mà họ sẽ có trong toàn bộ các giai đoạn của quá trình mua và sử dụng sản phẩm hay dịch vụ. Vì thế, việc tuyên truyền, quảng cáo đóng vai trò rất quan trọng để dẫn khách hàng đến quyết định mua một dịch vụ.
Dịch vụ về cơ bản là không cụ thể, do vậy nó rất dễ bắt chước. Điều này làm cho việc cạnh tranh trở nên gay gắt hơn và đó cũng ch nh là thách thức chủ yếu của marketing dịch vụ. Một dịch vụ có thể do nhiều tổ chức cung ứng, do đó các giải pháp marketing – mix cũng chịu tác động bởi các ch nh sách của các tổ chức mà doanh nghiệp sản xuất liên kết để cung cấp dịch vụ cho khách hàng.
Một đặc trưng rất cơ bản của dịch vụ là t nh không tách rời được. Trong đa số các trường hợp, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng đồng thời, và chỉ được hoàn thành cùng với sự hoàn thành tiêu dùng của khách hàng. Nếu chưa có khách hàng, chưa có hệ thống tạo ra dịch vụ.
Do dịch vụ được thực hiện bởi những người cung cấp khác nhau, ở những thời gian và địa điểm khác nhau, có cả sự can thiệp của khách hàng trong quá trình tạo ra dịch vụ đã tạo ra t nh không ổn định của dịch vụ. Vì thế khó có thể kiểm tra trước chất lượng dịch vụ và điều này gây khó khăn trong quản lý chất lượng của dịch vụ. Một đặc điểm rất quan trọng nữa là phối thức dịch vụ (services – mix) có cấu trúc phức tạp đòi hỏi t nh tổng hợp và t nh đồng bộ cao, là một tập hợp có kết cấu hợp lý bao gồm nhiều dịch vụ liên quan mật thiết với nhau và tác động qua lại với nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình tạo ra lợi ch cho khách hàng. Việc phối hợp các dịch vụ này với nhau ở những mức độ và kết cấu khác nhau sẽ hình thành nên những phối thức dịch vụ khác nhau. Vấn đề là mỗi doanh nghiệp cần phải biết khéo léo kết
hợp các loại dịch vụ khác nhau đó để tạo ra cho mình một tập hợp dịch vụ tương đối hoàn chỉnh phù hợp với những thế mạnh của mình, đồng thời đáp ứng tốt nhất nhu cầu có t nh đặc thù của từng thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp đã lựa chọn. Mặt khác, do thị trường luôn thay đổi, đòi hỏi doanh nghiệp phải thiết thế một cấu trúc dịch vụ sao cho có thể điều chỉnh linh hoạt theo sự thay đổi nhu cầu và thị hiếu của khách hàng để tránh lãng ph vì chi ph thiết kế dịch vụ mới thường rất tốn kém.
Phân loại dịch vụ
Các loại dịch vụ bao gồm:
Bảng 1.1. Phân loại dịch vụ
Con người | Vật Chất | |
Hành động hữu hình | Dịch vụ liên quan đến thể chất con người: - Chăm sóc sức khỏe - Chăm sóc sắc đẹp - Tập thể dục thẩm mỹ - Nhà hàng - Cắt tóc | Dịch vụ liên quan đến hàng hóa và các vật chất khác: - Vận chuyển hàng hóa - Bảo trì và sửa chữa thiết bị công nghiệp - Giặt ủi - Chăm sóc vườn và cây cảnh |
Hành động vô hình | Dịch vụ liên quan đến trí tuệ con người: - Giáo dục - Truyền hình - Thông tin - Nhà hát - Nhà bảo tàng | Dịch vụ liên quan đến tài sản vô hình: - Ngân hàng - Tư vấn pháp luật - Kế toán - Bảo vệ an ninh - Bảo hiểm |
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao chất lượng dịch vụ kinh doanh khách sạn nhằm phát triển bền vững ngành du lịch tại TP. Hồ Chi Minh trong giai đoạn 2015 – 2025 - 1
- Nâng cao chất lượng dịch vụ kinh doanh khách sạn nhằm phát triển bền vững ngành du lịch tại TP. Hồ Chi Minh trong giai đoạn 2015 – 2025 - 2
- Tổng Quan Sản Phẩm Dịch Vụ Và Chất Lượng Dịch Vụ Kinh Doanh Khách Sạn
- Mối Quan Hệ Giữa Chất Lượng Dịch Vụ Và Sự Hài Lòng Của Khách Hàng
- Cơ Sở Lý Luận Chất Lượng Dịch Vụ Kinh Doanh Khách Sạn
- Hệ Thống Quản Lý Cải Tiến Chất Lượng Sản Phẩm
Xem toàn bộ 172 trang tài liệu này.
Tóm lại:
Chất lượng dịch vụ là một phạm trù mang t nh tương đối và chủ quan. Do những đặc điểm của bản thân dịch vụ mà người ta đưa ra khái niệm chất lượng dịch vụ theo những cách khác nhau, nhưng nhìn chung thường đứng trên quan điểm của
người tiêu dùng dịch vụ: tức là chất lượng dịch vụ phụ thuộc vào những sự cảm nhận của khách hàng. Chất lượng dịch vụ là kết quả của một quá trình đánh giá t ch lũy của khách hàng dựa trên sự so sánh giữa chất lượng dịch vụ mong đợi và mức độ chất lượng đã nhận được.
Đặc điểm về sản phẩm dịch vụ khách sạn.
Sản phẩm của khách sạn thực chất là một quá trình tổng hợp các hoạt động từ khi nghe lời yêu cầu của khách cho đến khi khách rời khỏi khách sạn. Hoạt động bảo đảm nhu cầu sinh hoạt bình thường của khách: ăn ở, sinh hoạt, đi lại, tắm rửa… Hoạt động bảo đảm mục đích chuyến đi.
Sản phẩm khách sạn rất đa dạng tổng hợp bao gồm vật chất và phi vật chất, có thứ do khách sạn tạo ra, có thứ do ngành khác tạo ra nhưng khách sạn là khâu phục vụ trực tiếp, là điểm kết quả của quá trình du lịch.
Sản phẩm khách sạn là sản phẩm phi vật chất, cụ thể là:
o Sản phẩm dịch vụ khách sạn không thể lưu kho: một ngày buồng không tiêu thụ đuợc là một khoản thu nhập bị mất không thu lại được.
o Sản phẩm dịch vụ k h á c h s ạ n được sản xuất bán và trao đổi trong sự có mặt hoặc tham gia của khách hàng, diễn ra trong mối quan hệ trực tiếp giữa nhân viên với khách hàng.
o Khách sạn phục vụ trực tiếp, khách sạn chịu trách nhiệm về chất lượng của sản phẩm dịch vụ và hàng hóa dù rằng sản phẩm đó không được khách sạn sản xuất ra.
Mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng sản phẩm trong khách sạn
Sản phẩm khách sạn là sản phẩm mang tính phi vật chất. Quá trình sản xuất phục vụ và quá trình tiêu dùng sản phẩm khách sạn diễn ra gần như đồng thời trong cùng một thời gian và không gian.
o Cùng thời gian: Thời gian hoạt động của khách sạn phụ thuộc vào thời gian tiêu dùng của khách, hoạt động kinh doanh phục vụ của khách diễn ra một cách liên tục không có ngày nghỉ và giờ nghỉ. Nhưng do yêu cầu của khách không đều đặn nên cường độ hoạt động kinh doanh của khách sạn
diễn ra không đều đặn và mang tính thời vụ.
o Cùng một không gian: Sản phẩm của khách sạn không thể mang đến cho khách mà khách du lịch muốn tiêu dùng phải đến khách sạn để thỏa mãn nhu cầu của mình tại đó. Do đó vị trí của khách sạn rất quan trọng, nó ảnh hưởng to lớn đến khả năng thu hút khách và tiết kiệm chi phí.
Đặc điểm về tổ chức quá trình kinh doanh khách sạn.
Quá trình phục vụ do nhiều bộ phận nghiệp vụ khác nhau đảm nhận. Các bộ phận này vừa có tính độc lập tương đối, vừa có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình phục vụ liên tục nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách.
Do đó, vấn đề quan trọng trong công tác tổ chức của khách sạn là xác định trách nhiệm rõ ràng cho từng bộ phận nhưng phải bảo đảm tư tưởng để phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận của khách sạn như: lễ tân, buồng, nhà hàng, bếp…
Đặc điểm của việc sử dụng các yếu tố cơ bản trong khách sạn
Cần có tài nguyên du lịch: là yếu tố được coi là sản xuất trong kinh doanh khách sạn. Sự phân bố và tính hấp dẫn của tài nguyên du lịch chi phối tính chất, quy mô, cấp hạng khách sạn. Khách sạn có vị trí thuận lợi nằm ở điểm giàu tài nguyên du lịch cần phải khai thác một cách có hiệu quả nhằm làm tăng thu nhập.
Một yếu tố quan trọng nữa là nguồn vốn lớn:
o Sản phẩm khách sạn hầu hết là các dạng dịch vụ, do đó tiêu hao nguyên vật liệu thấp, phần lớn vốn nằm trong tài sản cố định.
o Rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình d u khách thường có xu hướng chi tiêu cao hơn bình thường và yêu cầu tiện nghi cao hơn.
o Do tính chất thời vụ, mặc dầu đã đầu tư một số tiền lớn cho việc xây dựng khách sạn nhưng kinh doanh có hiệu quả vài tháng trong năm nên đó là nguyên nhân tiêu hao vốn lớn.
Lao động: đòi hỏi sử dụng nhiều lao động vì
o Sự sẵn sàng phục vụ khách: là một trong những tiêu chuẩn quan trọng của chất lượng phục vụ.
o Sử dụng nhiều lao động được khách đánh giá là đạt tiêu chuẩn về chất
lượng phục vụ.
o Phục vụ khách là một quá trình đòi hỏi nhiều lao động khác nhau. Do đó tiêu chuẩn tuyển chọn nhân viên và nội dung huấn luyện khác nhau. Vì vậy, người lao động khó thay thế cho nhau và cũng là nguyên nhân gây ra nhu cầu sủ dụng lớn về lao động.
Tóm lại: Người lãnh đạo khách sạn phải thực hiện tốt công đoạn quản lý khách sạn để nâng cao chất lượng sản phẩm và đảm bảo chất lượng phục vụ.
Đặc điểm của đối tượng phục vụ trong khách sạn
Khách sạn có nhiều loại dịch vụ và nhiều loại khách khác nhau, vì vậy hoạt động rất phức tạp. Trong thực tiễn, người ta thấy rằng thông thường 80% toàn bộ khối lượng công việc mà các nhân viên phải thực hiện phải do 20% khách hàng khó tính đòi hỏi.
1.3.2. Cơ sở lý luận về chất lượng dịch vụ
Chất lượng là một khái niệm quá quen thuộc với loài người ngay từ những thời cổ đại. Có một số cách tiếp cận về chất lượng như:
o Cách tiếp cận chất lượng theo sự tuyệt hảo.
o Cách tiếp cận chất lượng dựa trên sản phẩm.
o Tiếp cận chất lượng trên góc độ sản xuất.
o Tiếp cận chất lượng trên góc độ người sử dụng.
o Tiếp cận chất lượng theo quan điểm giá trị.
Vậy chất lượng là gì?
Theo quan niệm cổ điển, người ta coi: “Chất lượng là mức phù hợp với các quy định sẵn về một số đặc tính của sản phẩm.” Tức là:
Sản phẩm hay dịch vụ
Quy định
Theo quan điểm hiện đại: “Chất lượng dịch vụ là sự phù hợp với mục đích sự dụng và là mức độ làm thỏa mãn khách hàng”.
Theo tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hóa ISO (THE INTERNATIONAL SYSTEM ORGANNIZATION FOR STANDARDIZATION), trong dự thảo DIS