Nâng cao chất lượng nhân lực của tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam - 2


Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI


1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về vai trò của vốn con người

Trên thế giới, những nghiên cứu về chủ đề này đã bắt đầu từ nhiều thập kỷ trước. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá, yếu tố vốn hữu hình tuy còn giữ vai trò quan trọng nhưng không như trong giai đoạn CNH, thay vào đó vai trò của vốn vô hình mà đặc biệt là vốn con người ngày càng lớn hơn. Đây là nguồn vốn rất quan trọng với các công ty vì được tính vào giá trị của họ, và hình thành nên vốn vô hình của quốc gia.

Từ lâu các nhà kinh tế đã quan tâm đến vai trò của vốn con người trong phát triển kinh tế và trong các quá trình sản xuất (Becker 1962; Kendrick, 1976; Schultz, 1961).

Cơ sở của lý thuyết vốn con người là việc đầu tư vào con người để gia tăng năng suất lao động của họ (Từ điển kinh tế hiện đại Macmillan, 1992). Những sự đầu tư này bao gồm đào tạo trong trường và đào tạo trong quá trình làm việc. Lý thuyết vốn con người là nền tảng của nhiều phát triển của các lý thuyết kinh tế. Những đóng góp này có thể được tóm tắt như sau: “Vốn con người đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế: (1) đó là các kỹ năng được tạo ra bởi giáo dục và đào tạo, vốn con người là yếu tố của quá trình sản xuất kết hợp với vốn hữu hình và các lao động “thô” (không có kỹ năng) để tạo ra sản phẩm;

(2) đó là kiến thức để tạo ra sự sáng tạo, một yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế.” (Mincer, 1989). [2]

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Ngoài ra, người ta đã coi vốn con người như một yếu tố đầu vào để phân tích tăng trưởng kinh tế và đã chỉ ra ảnh hưởng tích cực của nó giống như vốn hữu hình nhưng mức độ ngày càng lớn hơn. Tuy nhiên, nếu đầu tư hình thành vốn con người chưa tốt không hiệu quả thì nguồn vốn này không tác động tích cực mà lại làm giảm tăng trưởng. Theo cách tiếp cận thu nhập GDP của nền kinh tế bằng tổng thu nhập của mọi người trong nền kinh tế, khi thu nhập của mọi người tăng lên cũng làm tăng chỉ tiêu này. Borjas, George 2005 thông qua mô hình giáo dục chỉ ra ảnh hưởng tích cực của giáo dục tới thu nhập. [3]


Nâng cao chất lượng nhân lực của tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam - 2

Sự gia tăng vốn con người dẫn tới mức năng suất cao, ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế và do đó các nhà chính trị và hoạch định chính sách đều cố gắng hành động nhằm tạo ra vốn con người cho quốc gia. Lucas 1988 đưa ra giới thiệu phạm trù tăng trưởng nội sinh dựa vào tích luỹ vốn con người. Qua mô hình hàm sản xuất mà Lucas 1988 , Barro and Sala-i-Martin 1995 xây dựng có dạng: Y = Kα (uH)1-α.

Tron đó u là thời gian dành cho sản xuất, H là vốn con người và sản lượng

quốc gia Y phụ thuộc và nó.

Vốn con người được tích luỹ thế nào? Kiến thức và kinh nghiện thu nhận được trong đào tạo và cuộc sống là hai yếu tố quan trọng nhất hình thành vốn con người. Người thông minh thường biết phân bổ học hành và làm việc một cách hợp lý như thời gian dành cho học tập và làm việc , và sau đó là học tập và làm việc

Lucas, 1988 . Giả sử rằng mỗi lao động phân bổ một đơn vị thời gian có thể cho học tập hay làm việc. Học hay làm việc có thể được mô hình hoá như sau:

γH = B(1-u) –δ.

Trong đó γH là tỷ lệ tăng trưởng của vốn con người cho cá nhân điển hình

do tổng hợp từ các cá nhân nên γH cũng biểu hiện tỷ lệ tăng trưởng của vốn con người vĩ mô, 1-u là thời gian dành cho học tập, B là mức độ kiến thức biến đổi thành vốn con người, δ là sự giảm giá của vốn con người. [2]

Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu đều chỉ ra mối quan hệ dương khá chặt giữa yếu tố vốn con người và sự gia tăng sản lượng. Từ đó việc nâng cao trình độ kiến thức mọi mặt cho lao động sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất.

1.1.2 Các công trình nghiên cứu về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Việc nâng cao vốn nhân lực cần tới những khoản đầu tư vào giáo dục. Các công trình nghiên cứu gần đây về tăng trưởng kinh tế phát hiện rằng vốn nhân lực không kém phần quan trọng so với tư bản hiện vật trong việc giải thích những khác biệt về mức sống:

Sự nhìn nhận giáo dục là một sự đầu tư bắt nguồn từ thời Adam Smith (1776) trong tác phẩm Nguồn gốc của cải của các quốc gia năm 1776. Năng lực, kiến thức chuyên môn, các kỹ năng và cả những kinh nghiệm của con người được hình thành và tích luỹ thông qua quá trình đào tạo chính quy, quá trình sống và làm việc. Mức vốn con người được tích luỹ nhiều hay ít tương ứng với năng lực, lượng


kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm mà mỗi người nhận được từ quá trình học tập, đào tạo và lao động. Chúng thường được biểu hiện qua số năm đi học và số năm từng trải trên thị trường lao động Mincer, Jacob 1974 và Borjas George, 2005).

Để có được những năng lực này người ta cần phải bỏ ra chi phí nhất định để học hành trong các trường học cuối cùng những trải nghiệm trên đường đời, nhiều trường hợp người ta phải trả giá rất cao - chi phí đầu tư. Khi đầu tư vào vốn hữu hình, cần phải căn cứ vào tính khả thi của dự án đầu tư. Nhưng với vốn con người thì tính khả thi đó phụ thuộc vào năng lực tiếp thu kiến thức kỹ năng từ giáo dục hay phụ thuộc vào năng lực của mỗi người Borjas George 2005 . [3]

Đầu tư vào vốn con người phụ thuộc vào chủ thể tài trợ cho quá trình đầu tư. Becker 1962 phân biệt giữa đào tạo chung và đào tạo đặc thù. Đào tạo chung có giá trị như nhau cho nhiều doanh nghiệp tức là kỹ năng mà nó đem tới cho lao động có thể làm việc được trong nhiều doanh nghiệp như kế toán, thợ hàn… Trong khi đào tạo đặc thù chỉ hữu ích cho một doanh nghiệp. Thực tế, tình trạng phổ biến trong quản trị nhân sự là lôi kéo, tuyển mộ những lao động từ bên ngoài mà doanh nghiệp cần. Có doanh nghiệp sẽ tìm cách lôi kéo những lao động giỏi từ các doanh nghiệp cạnh tranh mà thực hiện đào tạo lao động cho mình nhưng họ trả lương cho lao động thấp hơn sản phẩm biên của lao động nhằm để thu hồi khoản chi phí đào tạo. Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp đào tạo sẽ nhận ra rủi ro lớn với khoản đầu tư đào tạo lao động của mình, nên sẽ đầu tư cho đào tạo thấp. Vì vậy khả năng dịch chuyển lao động càng lớn dẫn tới đầu tư thấp. Becker lập luận rằng vì trong thế giới cạnh tranh những lao động hưởng toàn bộ lợi nhuận từ đào tạo chung, do vậy họ sẽ tài trợ cho điều đó bằng cách trực tiếp hay thông qua nhận lương thấp. Từ khi lao động tự tài trợ cho đào tạo chung thì lôi kéo lao động tiêu cực biến mất và đầu tư thấp trong đào tạo chung chỉ xảy ra khi người lao động bị gượng ép. Sự sáng tạo quan trọng thứ 2 trong lý thuyết của Becker đó là doanh nghiệp sẽ tài trợ cho đào tạo đặc thù nhưng với điều kiện lao động chấp nhận làm việc sau đào tạo với mức lương thấp hơn sản phẩm biên của họ và phải bảo đảm mức lương sẽ cao hơn mức lương trên thị trường.

Trong hoạt động đầu tư, tính hiệu quả của các dự án đầu tư phụ thuộc vào thời điểm đầu tư, nếu lựa chọn đúng thì hiệu quả cao và đầu tư sai thì hiệu quả thấp hay thất bại. Vốn con người được tích luỹ thông qua quá trình đầu tư theo thời gian. Tuy nhiên, lượng vốn này cao hay thấp còn phụ thuộc vào thời điểm đầu tư vào giáo dục


của mỗi người. Nếu ai đó đi học đúng tuổi và nhận được giáo dục và nghề nghiệp trẻ thì chính là đầu tư đúng thời điểm và việc tích luỹ vốn tốt nhất. Công trình nghiên cứu của George Borjas 2005 đã kết luận rằng người ta đi học lúc trẻ sẽ tích luỹ được nhiều hơn “năng lực” tức kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm tích luỹ được nhiều hơn. Giáo dục tạo ra và góp phần tích luỹ vốn con người và làm gia tăng nó theo thời gian do vậy đầu tư đúng thời điểm sẽ quyết định mức vốn được tích luỹ.

- Trong Báo cáo của Ngân hàng Thế giới: “Cải cách Giáo dục và đào tạo nghề” đã tóm lược được những kinh nghiệm của các nước phân ra các khối khác nhau, như các nước chậm phát triển, các nước phát triển và các nước đang chuyển đổi. Báo cáo đã đưa ra những đề xuất trong việc giải quyết vấn đề cải cách hệ thống giáo dục nghề nghiệp hiện nay phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động. Đào tạo cái mà thị trường cần, chất lượng CNKT phải phù hợp với phát triển công nghệ của mỗi nước. Mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế có những điều kiện cụ thể khác nhau, nên có những bài học khác nhau về cải cách hệ thống dạy nghề. Trong đó, Báo cáo đề cập đến những chính sách, mô hình khác nhau của các nền kinh tế trong giải quyết mối quan hệ giữa đào tạo và thị trường lao động.

- Trong báo cáo của Ngân hàng Phát triển châu Á ADB “Giáo dục kỹ thuật và Dạy nghề” năm 1990 đã chỉ rõ các chức năng, đặc điểm của hệ thống dạy nghề, các chính sách của các quốc gia trong việc đào tạo nghề. Chỉ ra việc đào tạo nghề đáp ứng các nhu cầu của các khu vực kinh tế khác nhau trong nền kinh tế; một điểm quan trọng của Báo cáo này đã đi sâu vào phân tích kết cấu hệ thống giáo dục và dạy nghề với kinh nghiệm của nhiều nước có mô hình đào tạo nghề khác nhau.

- Donal L.Kirkpatrick 1998 nghiên cứu đề xuất “Mô hình đánh giá chương trình đào tạo với 4 cấp độ”, với những luận cứ và lý thuyết cơ bản về đánh giá chất lượng chương trình đào tạo với 4 cấp độ của người học.

1.1.3. Các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực ngành dầu khí

Báo cáo nghiên cứu về điều tra cơ bản thăm dò dầu khí ở Tazania của Quỹ Nghiên cứu Kinh tế và xã hội Nauy có đề cập tới vấn đề phát triển nhân lực thăm dò dầu khí năm 2009. Trong báo cáo này đã có những đánh giá các vấn đề phát triển NL ảnh hưởng đến hiệu suất của ngành công nghiệp khai thác dầu khí tại Tanzania. Các chính sách ảnh hưởng đến phát triển NL thăm dò dầu khí như: Chính sách việc làm quốc gia; Chính sách đầu tư quốc gia 1997; đặc điểm thị trường lao động…


1.2. CÁC NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.2.1 Các nghiên cứu về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nói chung

Về đào tạo và phát triển NL nói chung có rất nhiều công trình nghiên cứu và các bài viết, trong số đó một số nghiên cứu điển hình như:

- NNL chất lượng cao: Hiện trạng phát triển, sử dụng và các giải pháp tăng cường, Báo cáo đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư [80]. Nội dung của nghiên cứu này đã chỉ rõ, ngay từ đầu hoạch định chiến lược phát triển, con người phải được đặt vào vị trí chiến lược trung tâm của quá trình phát triển - Nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội không nằm ngoài mục tiêu phát triển NL chất lượng cao. Đề tài đã phân tích hiện trạng yếu kém của chiến lược phát triển và sử dụng NL chất lượng cao của nước ta, qua đó chỉ ra các giải pháp tăng cường phát triển hiệu quả NL chất lượng cao ở Việt Nam trong bối cảnh phát triển hiện nay.

- Phát triển NL chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam; Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Thị Hồng Diệp [28]. Luận án đã làm rõ được một số vấn đề như sau: 1 những vấn đề lý luận mới về phát triển NL chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức thông qua những phân tích về nội dung, tiêu chí và những yếu tố tác động tới quá trình phát triển lực lượng này. 2 Đánh giá tương đối toàn diện thực trạng phát triển NL chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức giai đoạn 2001 - 2007 gắn với những nội dung, tiêu chí và các yếu tố tác động đã nêu. 3 Đề xuất một số giải pháp phát triển NL chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong tương lai. Những đề xuất đó góp phần tìm ra con đường và cách thức hiệu quả để phát triển NL chất lượng cao thực sự trở thành lực lượng tiên phong trên hành trình hiện thực hoá nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.

- Phát triển NL thông qua giáo dục và đào tạo- Kinh nghiệm Đông Á của Viện Kinh tế Thế giới 2003 . Cuốn sách đã giới thiệu các thành tựu đạt được của nhóm nước trong khu vực trong phát triển NL thông qua giáo dục và đào tạo. Các chính sách thành công về giáo dục và đào tạo của các nước Đông Á là giải pháp quan trọng trong cung cấp NL đáp ứng yêu cầu của CNH. Đó cũng là bài học cho Việt Nam trong sự nghiệp phát triển NL. [81]


1.2.2. Các nghiên cứu về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Trong những năm gần đây, một số các công trình nghiên cứu khoa học mang tính chuyên sâu có liên quan đến chất lượng NL trong các lĩnh vực khác nhau được công bố. Nhiều tác giả có sự quan tâm và thấy sự nhức nhối trong vấn đề NL Việt Nam nói chung dồi dào về số lượng nhưng khan hiếm về chất lượng, đặc biệt là NL chất lượng cao. Do đó, sự tâm huyết thôi thúc các tác giả nghiên cứu về chất lượng NL trong các ngành, các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế xã hội.

Chất lượng NNL, bài toán tổng hợp cần có lời giải đồng bộ. Sự hưng thịnh hay suy vong của một quốc gia mang tầm vĩ mô hay sự thành công của một tổ chức tầm vi mô đều dựa vào NL và trình độ có được của NL đó. Tuy nhiên, đến nay chưa có lời giải xác đáng cho vấn đề chất lượng NL này mặc dù luôn có chiến lược phát triển NL cho quốc gia và các chính sách NL cho việc thực hiện các chiến lược phát triển NL đó. Vấn đề này không chỉ là vấn đề của một thời điểm hay một thời kỳ nhất định, mà đó là một vấn đề cần được quan tâm trong chiến lược phát triển tổng thể và dài hạn của một quốc gia, một ngành và của từng doanh nghiệp. Một quốc gia muốn phát triển, có sánh vai với tốc độ tăng trưởng và phát triển của các nước phát triển hiện đại được hay không chủ yếu nhờ vào lợi thế cạnh tranh về NL. Đó là chìa khóa, là đầu mối của để có những quyết sách và chiến lược thành công.

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KHXH 05-03 (GS.TS Nguyễn Phú Trọng làm chủ nhiệm đề tài “Luận chứng khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” đã đúc kết và đưa ra những quan điểm, sự định hướng trong việc sử dụng các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung và trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống KTXH [78]. Nhưng như vậy, trong mọi hoạt động của đời sống KT không chỉ có đội ngũ cán bộ, mà tham gia vào lực lượng LĐ một quốc gia, một ngành còn có đội ngũ công nhân có thể qua đào tạo hoặc không qua đào tạo là LĐPT... Do đó, đề tài là một tài liệu được tham khảo hữu ích nhất trong trường hợp liên quan đến cán bộ là công chức trong các đơn vị hành chính sự nghiệp.

- PGS.TS. Thái Bá Cần 2004 với nghiên cứu “Đề xuất phương pháp đánh giá chất lượng đào tạo với đánh giá hiệu quả trong (đánh giá bằng cấp, kết quả điểm); và đánh giá hiệu quả ngoài (thời gian có việc làm, thành công nghề nghiệp)”, đã đưa ra


quan điểm về đánh giá chất lượng đào tạo của Nhà trường không chỉ căn cứ vào bằng cấp đào tạo, mà còn phải được căn cứ vào kết quả là người lao động sau khi được đào tạo có kiếm được việc làm phù hợp với ngành nghề mình đã được đào tạo hay không [5].

1.2.3. Các nghiên cứu về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong doanh nghiệp và ngành

- Luận án tiến sỹ của Trần Khắc Hoàn 2006 về “Kết hợp đào tạo tại trường và doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” [37]. Tác giả cho rằng, cần có sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nghề, giúp tương tác hỗ trợ nhau trong đào tạo giữa giảng dạy lý thuyết và thực hành.

- Luận án Tiến sỹ kinh tế “Phát triển NL trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”. của tác giả Lê Thị Mỹ Linh [44]. Tác giả đã khái quát hóa và phát triển những vấn đề lý luận liên quan đến đào tạo, phát triển NL nói chung và về phát triển NL trong DNNVV nói riêng; đã nghiên cứu và tìm hiểu được kinh nghiệm quốc tế về vấn đề phát triển NL cho DNNVV; chỉ ra những ưu, nhược điểm của hoạt động quản lý đào tạo và phát triển NL trong DNNVV và tìm ra các nguyên nhân của thực trạng đó và khuyến nghị những giải pháp phát triển NL trong DNNVV.

- Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam - lý luận và thực tiễn do PGS. TS. Đỗ Minh Cương - TS. Mạc Văn Tiến đồng chủ biên [14]. Bên cạnh việc đi sâu nghiên cứu tìm ra các giải pháp phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam, các tác giả đã đưa ra các khái niệm NL ở phạm vi vĩ mô và vi mô, kinh nghiệm đào tạo và phát triển lao động kỹ thuật ở một số nước như Đông Nam Á, Trung Quốc, Nhật, Mỹ.

- Bài viết “Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Hân trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng [31]. Đối với một ngành kinh doanh dịch vụ như ngân hàng thì chất lượng đội ngũ nhân viên là yếu tố quan trọng quyết định sức mạnh của tổ chức. Trong quá trình giao dịch trực tiếp với khách hàng, nhân viên chính là một yếu tố để khách hàng đánh giá về chất lượng dịch vụ ngân hàng. Bài viết đi sâu tìm hiểu những đánh giá, mong muốn của khách hàng đối với nhân viên để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phục vụ và khả năng giao tiếp của đội ngũ nhân viên tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.


- Bài viết “Đào tạo công nhân kỹ thuật - kinh nghiệm quốc tế và giải pháp cho khu kinh tế Dung Quất” của tác giả Lê Quang Sơn - Nguyễn Hồng Tây - Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng [59]. Những năm gần đây, Khu Kinh tế Dung Quất tỉnh Quảng Ngãi nổi lên như điểm sáng về thu hút đầu tư và phát triển các ngành công nghiệp nặng mũi nhọn. Sự phát triển nhanh chóng này, cùng với sự phát triển không đồng bộ của khâu đào tạo, đã đặt các nhà đầu tư vào tình trạng thiếu hụt nhân lực, nhất là nhân lực trình độ công nhân kỹ thuật. Bài viết này khai thác kinh nghiệm đào tạo công nhân kỹ thuật ở một số nước, từ đó đề xuất các giải pháp quản lý đào tạo công nhân kỹ thuật đáp ứng nhu cầu phát triển Khu Kinh tế Dung Quất trong thời gian tới. Những giải pháp đề xuất quan trọng nhất là giải pháp về hoàn thiện cơ chế, chính sách đào tạo, sử dụng đội ngũ; dự báo nhu cầu và xây dựng chiến lược đào tạo; đổi mới nội dung đào tạo và thiết lập hệ thống thông tin; nâng cao năng lực đào tạo của các cơ sở đào tạo trên địa bàn; liên kết đào tạo và xã hội hóa công tác đào tạo.

- Bài viết “Một số vấn đề về đào tạo và phát triển NNL” - Võ Tiến Xuân, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng [83]. Nhân lực - nguồn lực quí giá nhất của các tổ chức, đơn vị là yếu tố quyết định sự thành bại của họ trong tương lai. Bởi vậy, các tổ chức và đơn vị luôn tìm cách để duy trì và phát triển nguồn nhân lục của mình. Một trong các biện pháp hữu hiệu nhất nhằm thực hiện mục tiêu trên là đào tạo và phát triển NL. Tuy nhiên, liên quan đến vấn đề này còn có ý kiến khác nhau. Bài báo này sẽ góp phần làm sáng tỏ các nội dung: NL, đào tạo NL, phát triển NL; năng lực người lao động; động cơ thúc đẩy người lao động; yêu cầu của đào tạo và phát triển NL. Bài viết nhấn mạnh việc đào tạo và phát triển NL phải cố gắng đáp ứng các yêu cầu cụ thể như sau: cải tiến cơ cấu NL; phát triển trình độ chuyên môn kỹ thuật của NL- Phát triển kỹ năng nghề nghiệp; nâng cao trình độ nhận thức cho người lao động; nâng cao trình độ sức khỏe của người lao động.

- Bài viết “Phát huy NNL bằng động lực thúc đẩy” của tác giả Nguyễn Văn Long [49]. Trong nền kinh tế tri thức, khi giá trị sản phẩm hơn 80% là hàm lượng chất xám, tài sản NL càng được đặt vào một vị trí quan trọng. Thúc đẩy người lao động làm việc hiệu quả là vấn đề hết sức quan trọng trong các tổ chức. Người lao động làm việc nhiệt tình, năng suất và hiệu quả công việc cao thì các mục tiêu của tổ chức sẽ dễ dàng đạt được hơn, từ đó tạo thuận lợi không ngừng phát triển. Phát huy

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 14/11/2022