Bảng 6: Tỷ lệ nắm giữ vốn của Tập đoàn Dầu khí tại PVFC
2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 2015 | 2025 | |
Tỷ lệ nắm giữ vốn TĐ tại PVFC | 70% | 60% | 55% | 49% | 40% | 35% | 30% |
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Hoạt Động Kinh Doanh Của Pvfc Sau Hơn 7 Năm Thành Lập (2001- 2008)
- Nhìn Nhận Kết Quả Và Đánh Giá Điều Kiện Xây Dựng Tập Đoàn Tài Chính
- Đánh Giá Điều Kiện Chủ Quan Xây Dựng Tập Đoàn Tài Chính
- Tăng Cường Cho Vay Đối Với Các Tổ Chức Kinh Tế
- Chuẩn Bị Các Điều Kiện Cơ Sở Vật Chất Và Các Điều Kiện Khác Để Hội Nhập
- Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh Tổng công ty Tài Chính Cổ phần Dầu khí VPFC hướng tới Tập đoàn tài chính - 12
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
Nguồn: http://pvfc.com.vn
Khi mới bắt đầu thành lập PVFC là công ty 100% vốn của Tập đoàn Dầu khí nhưng tỷ lệ này giảm dần qua các năm thể hiện sự phát triển về chất cũng như về lượng. Với tiềm lực kinh tế mạnh mẽ, Tổng công ty có nhiều thế mạnh trong việc nắm giữ thị phần trên thị trường cũng như đủ khả năng để phát triển thêm nhiều nghiệp vụ mới, tạo ra sự tăng trưởng cao và ổn định. Mặc dù tốc độ tăng vốn khá nhanh trong thời gian qua nhưng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của PVFC vẫn tăng đều qua các năm, năm 2004 là 2,61% đến năm 2006 con số này là 11,13%. Hiện nay, PVFC có tổng cộng 8 chi nhánh, 13 phòng giao dịch tại 7 khu vực trên khắp cả nước Hà Nội, TP HCM, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Hải Phòng, Nam Định... PVFC là tổng công ty có thương hiệu và tên tuổi lớn trong nước đặc biệt trong ngành Dầu khí, do vậy, kế hoạch lợi nhuận của PVFC trong giai đoạn 2007-2011 nếu không có những biến động bất thường thì tốc độ tăng trưởng ở mảng đầu tư tài chính khoảng 30-35%/năm là có khả thi. Thu nhập trên một cổ phiếu trong giai đoạn 2007 - 2010 trung bình khoảng 1.100 đồng/CP.
2. Khó khăn
2.1 Nhận thức của các cấp, các ngành về việc xây dựng TĐTC chưa thật sự thống nhất và thấu đáo
Hiện nay, vấn đề xây dựng TĐTC ở nước ta đang tồn tại những ý kiến khác nhau, tóm tắt lại có hai nhóm sau:
Nhóm ý kiến thứ nhất cho rằng, không nên xây dựng TĐTC ở thời điểm hiện nay, bởi vì chưa hội tụ đầy đủ các yếu tố, điều kiện cấu thành cho sự ra đời và phát triển của TĐTC. Trong đó, quan trọng nhất là cơ chế quản lý lĩnh vực tài chính chưa chuyển hẳn sang cơ chế kinh tế thị trường mà còn nặng tính mệnh lệnh, hành chính và bao cấp. Tiềm lực tài chính của các tổ chức tài chính chưa mạnh; sản phẩm dịch vụ còn đơn điệu, nghèo nàn và chưa có thương hiệu. Môi trường, thể chế phục vụ các hoạt động của TĐTC chưa hoàn thiện, chất lượng thấp, không phù hợp với thông lệ quốc tế… Hơn thế, việc thành lập ồ ạt, mang tính phong trào và mệnh lệnh hành chính các Tổng công ty 90, Tổng công ty 91 thời gian qua đã và đang lộ dần những bất cập về phương thức quản trị và điều hành tập đoàn kinh tế, nhất là quản trị và điều hành mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con; hiệu quả kinh tế chưa đạt được mục tiêu như mong đợi. Chính vì vậy, không nên thành lập vội các tập đoàn kinh tế mới, đặc biệt là TĐTC mà cần phải thận trọng tổng kết, đúc rút bài học kinh nghiệm (từ các tập đoàn kinh tế đã thành lập) chuẩn bị cho sự ra đời của TĐTC trong tương lai.
Đặc biệt, tài chính là lĩnh vực quan trọng và rất nhạy cảm với nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập. Nếu phạm phải sai lầm trong xây dựng, phát triển TĐTC thì hậu quả của nó ảnh hưởng tiêu cực gấp nhiều lần so với lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ.
Nhóm ý kiến thứ hai cho rằng, hiện nay cần phải thành lập TĐTC vì:
Một mặt, Lĩnh vực tài chính đã có bước phát triển khá trong những năm gần đây cả về thị phần - thị trường, công nghệ, nhân lực, dịch vụ tín dụng - ngân hàng, loại hình sở hữu… Đây là tiền đề, điều kiện tốt để tổ chức lại ngành ngân hàng theo mô hình kinh tế mới, hiện đại và hiệu quả cao.
Mặt khác, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu hàm chứa nhiều cam go, thách thức đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung,
ngành tài chính nói riêng. Theo lộ trình cam kết thực hiện điều khoản của các hiệp định thương mại: Hiệp định thương mại dịch vụ ASEAN (AFAS); Hiệp định thương mại Việt - Mỹ; Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATT) của WTO từ nay đến năm 2010, Việt Nam phải mở cửa thị trường dịch vụ tài chính - ngân hàng. Do đó, dù muốn hay không thì các TĐTC mạnh ở các công ty xuyên quốc gia, các nền kinh tế phát triển đương nhiên hoạt động trên thị trường Việt Nam.
2.2 Chưa hình thành được mối quan hệ gắn kết chặt chẽ giữa Chính phủ, ngành tài chính với các bộ, ngành có liên quan
Qua thực tiễn hoạt động thí điểm một số tập đoàn kinh tế ở Việt Nam trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, thương mại và ngay cả Tập đoàn Bảo hiểm Việt Nam có thể nhận thấy rất rõ: mặc dù Chính phủ có chủ trương đúng đắn về xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh, đặc biệt là các TĐTC nhưng công tác tổ chức thực hiện thí điểm chưa tốt. Các tập đoàn kinh tế trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, thương mại hoạt động vẫn chủ yếu mang tính độc lập từng ngành; khả năng gắn kết chặt chẽ với các bộ, ngành có liên quan như Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp...chưa tốt nên chưa huy động được sức mạnh tổng hợp để hình thành các TĐTC ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế.
2.3 Về cơ chế hoạt động
PVFC khi thành lập là một thành viên 100% vốn của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (mặc dù đang giảm dần tỷ lệ vốn điều lệ do Tập đoàn nắm giữ) nên trong quá trình hoạt động PVFC vừa phải tuân thủ các quy định của pháp luật vừa phải phụ thuộc một phần vào Tập đoàn như chính sách lương thưởng, phúc lợi, định mức lao động, kế hoạch lợi nhuận, công tác tiếp thị, phát triển khách hàng ... điều này đã làm cho hoạt động kinh doanh phần nào kém linh hoạt và không phát huy hết yếu tố nguồn lực con người trong quá trình hoạt động.
2.4 Áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt
Tính đến thời điểm hiện nay thị trường tài chính Việt Nam được hình thành bởi rất nhiều các định chế tài chính: 03 khối Ngân hàng bao gồm 05 NHTM Nhà nước, 37 NHTM Cổ phần và khối các ngân hàng nước ngoài; cácCông ty chứng khoán, công ty bảo hiểm và rất nhiều các công ty tài chính khác. Trong những năm gần đây các NHTM Cổ phần đã không ngừng nâng cao năng lực tài chính (bổ sung vốn điều lệ), không ngừng đầu tư phát triển mạng lưới, thành lập chi nhánh, phát triển hệ thống các phòng giao dịch, đầu tư công nghệ, đầu tư lắp đặt hệ thống máy ATM tại các địa bàn để có thể phục vụ khách hàng tốt hơn. Bên cạnh đó các NHTM Cổ phần cũng thực hiện hàng loạt các chiến dịch, chương trình quảng cáo, tiếp thị, quan hệ công chúng để nâng cao vị thế và hình ảnh trên thị trường. Điều này đã tạo nên sức ép cạnh tranh lớn cho khối các công ty tài chính nói chung và PVFC nói riêng.
Trong các mảng dịch vụ chính của PVFC, mảng dịch vụ huy động vốn, trong tương lai PVFC sẽ phải đối mặt môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt vì thời gian qua chủ yếu là các NHTM nhà nước và NHTM cổ phần đẩy mạnh huy động vốn trung và dài hạn bằng hình thức tiết kiệm từ 3 đến 5 năm và chứng chỉ tiền gửi 12 tháng trở lên bằng cạnh tranh lãi suất, cộng với việc một số Doanh nghiệp nhà nước phát hành trái phiếu với mức lãi suất khá cao so với lãi suất của các NHTM, các kênh thu hút tiền trong dân cư như: cổ phiếu Ngân hàng, cổ phần và cổ phiếu của các Doanh nghiệp cổ phần hoá, chứng khoán, bảo hiểm nhân thọ, đầu cơ bất động sản,... cũng làm tăng thêm mức độ cạnh tranh về nguồn vốn có thể huy động được giảm đi, gây áp lực lên lãi suất.
2.5 Sự chuyển dịch nhanh chóng của lực lượng lao động
PVFC mới cổ phần hoá, mặc dù thời gian qua đã không ngừng tìm kiếm các giải pháp nhằm hỗ trợ nâng cao đời sống và thu nhập của người lao
động, tuy nhiên chính sách lương, thưởng và các chế độ đãi ngộ của PVFC vẫn chưa thực sự là đòn bẩy khuyến khích người lao động làm việc và gắn bó với PVFC vì nó chưa theo kịp được các chính sách chế độ, đãi ngộ của hệ thống các NHTM cổ phần, ngân hàng nước ngoài, các TĐTC khác ở Việt Nam.. Điều này đã dẫn đến việc một bộ phận nhân sự có trình độ, kinh nghiệm chuyển sang làm việc ở nơi khác làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngoài ra, nhìn tổng quát, quy mô của Tổng công ty đã được phát triển nhưng còn nhỏ hẹp về khách hàng, địa bàn, mạng lưới, lĩnh vực, vốn và các dịch vụ. Chất lượng dịch vụ còn thấp so với yêu cầu hội nhập phát triển.
III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XÂY DỰNG PVFC THÀNH TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH
Trong định hướng phát triển từ nay đến năm 2025, mục tiêu trước mắt mà Tổng công ty đặt ra là đến năm 2010 trở thành một tập đoàn tài chính, các giai đoạn công ty đều đặt ra chỉ tiêu rõ ràng về tỷ suất lợi nhuận, tốc độ tăng trưởng bình quân, giá trị doanh nghiệp...phải đạt là bao nhiêu. Như vậy để có thể trở thành một TĐTC, trước hết PVFC phải đảm bảo phát triển vững chắc các hoạt động kinh doanh tài chính của công ty vì bất kỳ một tổ chức tài chính nào muốn trở thành TĐTC phải có quy mô lớn về vốn, doanh số hoạt động.
PVFC hiện đã phát triển và triển khai thêm một số nghiệp vụ mới nhưng các nghiệp vụ truyền thống như: huy động vốn, nghiệp vụ cho vay, đầu tư tài chính, UTĐT...phải luôn được chú trọng và ngày càng hoàn thiện hơn đặc biệt là nghiệp vụ huy động vốn vì đây chính là nghiệp vụ mà PVFC cần nâng cao khả năng cạnh tranh với các Ngân hàng.
1. Giải pháp phát triển nghiệp vụ của PVFC
1.1. Giải pháp phát triển nghiệp vụ huy động vốn
Đây được coi là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất nhưng vẫn còn khá nhiều hạn chế như đã nói ở trên. Nước ta đang thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, Dầu khí là một lĩnh vực mũi nhọn mà Petro VN trong quá trình thực hiện chiến lược chiến lược đầu tư “ tăng tốc”, do đó nhu cầu vốn đầu tư để mở rộng sản xuất kinh doanh là rất lớn. Nhiệm vụ của PVFC là cần tăng cường huy động mọi nguồn vốn để đáp ứng cho nhu cầu đó mà trước mắt là đến năm 2010 là đặc biệt quan trọng. Các biên pháp cụ thể là:
1.1.1. Tăng cường sức mạnh của PVFC thông qua vốn điều lệ
Trên cơ sở vốn điều lệ tăng thêm giúp cho PVFC có cơ hội huy động thêm rất nhiều vốn trong và ngoài Petro VN kể cả vốn nước ngoài phục vụ cho quá trình cho vay, đầu tư, tiếp cận và đổi mới công nghệ để hiện đại hoá dịch vụ, nâng cao sức cạnh tranh từ đó tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. PVFC có thể tăng vốn điều lệ từ nguồn vốn tích luỹ của mình qua các năm hoạt động, tuy nhiên số vốn này của PVFC là không lớn, không đáp ứng được quy mô vốn điều lệ mà PVFC cần để có thể thành lập TĐTC. Vì vậy cần thiết có việc bổ sung vốn điều lệ từ Ngân sách Nhà nước và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.
Khi PVFC đã cổ phần hoá việc bổ sung vốn điều lệ từ Ngân sách Nhà nước là rất khó khăn và không khả thi, chỉ có thể nhận từ Petro VN. Khi mới thành lập PVFC là thành viên 100% vốn từ Petro VN, hiện tại tỷ lệ này đã giảm xuống khoảng 70% nhưng nếu nhận quá nhiều từ Tập đoàn, PVFC sẽ không chủ động và linh hoạt hơn trong nền kinh tế thị trường. Một số nguồn có thể sử dụng để bổ sung vốn điều lệ cho PVFC như: nguồn tiền cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên, các quỹ tập trung như: quỹ khấu hao, quỹ dự phòng, quỹ phát triển sản xuất...và việc thu được từ nguồn tiền thông qua việc cổ phần hoá các đơn vị thành viên có thể đạt được
1.1.2. Tăng cường huy động vốn từ trong nội bộ Tập đoàn
- Huy động vốn từ nguồn vốn UTĐT của Petro VN bao gồm: nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); nguồn quỹ hỗ trợ đầu tư, các nguồn
vốn tự tích luỹ để tái đầu tư...Các doanh nghiệp chủ yếu vay từ nguồn ODA vì lãi suất thấp, thời gian cho vay dài. Đối với việc huy động từ nguồn nguồn quỹ hỗ trợ đầu tư, các nguồn vốn tự tích luỹ để tái đầu tư...tự bản thân PVFC phải đề nghị các đơn vị thành viên gửi đầy đủ hồ sơ liên quan về dự án đầu tư, thẩm định hồ sơ và hướng dẫn các đơn vị thực hiện tiến độ giải ngân, triển khai theo đúng định kỳ.
Ngoài ra Petro VN cần ban hành văn bản giao cho PVFC quản lý nguồn vốn UTĐT của Tập đoàn, thông báo cho các đơn vị thành viên được uỷ quyền làm chủ đầu tư các dự án biết để các đơn vị tiếp nhận vốn đầu tư từ PVFC, quy định mức phí Uỷ thác mà PVFC được hưởng.
- Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu Dầu khí để phục vụ nhu cầu vốn trung và dài hạn, việc phát hành cần tuân thủ:
+ Phát hành cổ phiếu:
Thu thập, xử lý các thông tin về doanh nghiệp, thị trường và môi trường pháp lý có liên quan một cách đầy đủ, cập nhật và chính xác nhất như một tiêu đề quan trọng để tổ chức xây dựng phương án phát hành cổ phiếu.
Xác định đúng, rõ thời điểm, mục tiêu phát hành cổ phiếu; mệnh giá cổ phiếu; phương thức phát hành và tổ chức bảo lãnh phát hành. Khi tổ chức đấu giá lần đầu IPO, với quy mô cũng như lợi thế của PVFC, mức giá khởi điểm 51.000đ/cổ phần được rất nhiều nhà đầu tư đánh giá là hấp dẫn. Theo lộ trình từ năm 2008 đến 2011, PVFC sẽ thực hiện bán bớt phần vốn nhà nước để hạ mức nắm giữ xuống còn 40% sẽ là cơ hội lớn cho các nhà đầu tư.
Tổ chức tốt các hoạt động thông tin tuyên truyền về PVFC, về phương án phát hành và các thông tin khác cần thiết.
+ Phát hành trái phiếu:
Căn cứ vào khả năng huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, các tầng lớp dân cư và nhu cầu vốn đầu tư của Tập đoàn từng thời kỳ để quy định mức lãi suất phù hợp, đảm bảo xoay quanh mức lãi suất cơ bản NHNN công bố
Sử dụng nhiều hình thức thanh toán như trả lãi định ký hàng năm, trả lãi khi đến hạn, trả lãi gốc và trả lãi cuối kỳ, đồng thời tăng tính thanh khoản qua việc mua lại, làm trung gian mua bán, tạo điều kiện cho người có trái phiếu Dầu khí có thể vay thế chấp...
1.1.3. Tăng cường huy động vốn từ các tổ chức tài chính trong và ngoài nước
Các tổ chức tài chính khác là các NHTM cổ phần, Công ty tài chính, quỹ đầu tư, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam, là các tổ chức hoạt động hiệu quả có nguồn vốn lớn đặc biệt tăng cường huy động vốn từ các tổ chức tài chính tín dụng nước ngoài. Do Ngân hàng Nhà nước kiểm soát chặt chẽ các khoản vay từ các tổ chức nước ngoài và vì lãi suất vay vốn chưa hấp dần, thủ tục còn phức tạp nên hầu như PVFC chưa quan tâm đến hình thức huy động vốn này. Tuy nhiên với xu thế tự do hoá thương mại như hiện nay, nguồn vốn vay từ các TCTD nước ngoài sẽ quan trọng vì đáp ứng nhu cầu nhập khẩu thiết bị, công nghệ nước ngoài...
1.1.4. Tăng cường huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư
Các tổ chức kinh tế và dân cư có thói quen về các khoản tiền gửi đối với NHTM nhưng bằng chất lượng dịch vụ, lãi suất cạnh tranh, lợi thế từ ngành Dầu khí, các đối tượng này đã dần tìm đến PVFC. Đây là những khách hàng quan trọng mà nếu có những dịch vụ tài chính hợp lý, an toàn, ưu đãi thì sẽ huy động được một khối lượng rất lớn nguồn vốn.
1.2. Giải pháp phát triển nghiệp vụ cho vay
Thực hiện phương châm "sử dụng tổng hoà các loại nguồn vốn để hình thành lãi suất hoà đồng, có tính cạnh tranh cao", đáp ứng tối đa nhu cầu vốn tín dụng của các dự án trong ngành, đặc biệt đẩy mạnh cho vay trung và dài