Tình Hình Tranh Chấp, Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất Tại Tòa Án Nhân Dân Và Những Vấn Đề Phát Sinh

nước không kịp ban hành các văn bản để ổn định quan hệ hình thành trước đó, dẫn đến cách hiểu, vận dụng pháp luật khác nhau khi luật mới ra đời. ví dụ: giải quyết tranh chấp nhà có Nghị quyết 58, nhưng để giải quyết tranh chấp đất không có nghị quyết nào tương tự, nên Tòa án gặp nhiều khó khăn khi vận dụng pháp luật trong bối cảnh pháp luật đất đai thay đổi liên tiếp và có những thay đổi căn bản.

Thứ tư, trình độ, năng lực của đội ngũ Thẩm phán chưa ngang tầm với sự đòi hỏi của đời sống xã hội. Như trên đã phân tích, do chính sách pháp luật về đất đai thay đổi qua từng thời kỳ nên hệ thống các văn bản pháp luật đất đai thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với chính sách đất đai của Nhà nước. Các văn bản pháp luật phải thay đổi, bổ sung từ nhiều cơ quan khác nhau, từ trung ương đến địa phương nên đội ngũ Thẩm phán rất khó cập nhật kịp thời sự thay đổi này. Mặt khác năng lực, trình độ đội ngũ Thẩm phán còn thiếu và yếu, không đồng đều. Có nhiều Thẩm phán chưa được đào tạo, tập huấn thường xuyên nên chưa nắm bát kịp những thay đổi liên tục của các quy phạm pháp luật về đất đai.

Thứ năm, tính phức tạp của việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất. Thực tế giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất trong những năm qua cho thấy tính phức tạp của loại tranh chấp này được thể hiện ở nhiều phương diện như: Thẩm quyền giải quyết tranh chấp, điều kiện để công nhận hợp đồng, cách xử lý đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng này bị vô hiệu.... Khi đã xác định được hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vô hiệu thì việc xác định lỗi để buộc đương sự phải bồi thường cũng là vấn đề khó khăn phức tạp. Đặc biệt, khi các đương sự không thỏa thuận được với nhau về giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì việc xác định giá cũng là vấn đề khó khăn, phức tạp của người Thẩm phán khi quyết định một mức giá làm căn cứ để giải quyết vụ án. Mặt khác, khi giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất các Tòa án gặp không ít khó khăn đối với trường hợp đất đã được cá nhân, tổ chức đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác xã sau đó tập đoàn sản xuất, hợp tác xã giải thể hoặc tập đoàn sản xuất đã giao đất cho một số người sử dụng. Ngoài ra, Tòa án nhân dân còn thụ lý nhiều vụ tranh chấp quyền sử dụng đất mà nguồn gốc đất tranh chấp là của chủ đất cũ (do cha ông để lại, do mua bán, được tặng cho, được thừa kế...) nhưng do chiến tranh hoặc hoàn cảnh khó khăn, chủ đất cũ bỏ đi nơi khác sinh sống nên có người

đã tự vào dựng nhà ở, sử dụng canh tác đến nay, chủ đất mới khởi kiện đòi lại quyền sử dụng đất. Ngoài ra, Tòa án nhân dân phải giải quyết nhiều trường hợp do lấn chiếm đất, người đang sử dụng đất này từ trước sau một thời gian dài, chủ đất không có ý kiến gì, nay mới khởi kiện đòi quyền sử dụng đất. Việc giải quyết các tranh chấp này hết sức khó khăn, phức tạp vì nó vừa có tính chất của giao dịch dân sự, vừa bị chi phối bởi chính sách pháp luật đất đai. Trong khi các chính sách, pháp luật đất đai mỗi thời kỳ lại có những thay đổi rất khác nhau, Nhà nước không quy định hướng xử lý các loại quan hệ nói trên nên khi giải quyết, Tòa án nhân dân gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác minh, thẩm tra và đánh giá chứng cứ.

Kết luận chương 1


áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước và đồng thời là cách thức Nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật. áp dụng pháp luật mang tính thực tiễn, cụ thể và sinh động và được tiến hành theo một trình tự nhất định do pháp luật quy định. áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, là thủ tục bắt buộc để các cơ quan nhà nước thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi có hành vi vi phạm pháp luật. Khi phải giải quyết các tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể hoặc khi Nhà nước cần phải can thiệp để thực thi các quyền của chủ thể theo quy định của pháp luật thì áp dụng pháp luật có vai trò rất to lớn và rất quan trọng trong việc thực hiện quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng v.v...

áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân là hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực của Nhà nước được thực hiện thông qua hội đồng xét xử, do người Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xác định sự thật khách quan, phân xử đúng, sai, xác định tính có căn cứ hay không có căn cứ, tính hợp pháp hay không hợp pháp nhằm cụ thể hóa những quy phạm pháp luật về đất đai vào các tranh chấp quyền sử dụng đất cụ thể bằng các bản án, các quyết định nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự góp phần làm ổn định trật tự xã hội và củng cố mối đoàn kết trong nội bộ nhân dân.

áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân mang đặc điểm chung của hoạt động áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, nó còn có những đặc điểm riêng và là những biểu hiện cụ thể của những đặc điểm chung. Quy trình áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân được thực hiện theo quy trình chung, đồng thời thể hiện những nét riêng, phù hợp với những đặc điểm hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân.

Chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân được đánh giá bằng các tiêu chí, trong đó tiêu chí cơ bản và rất quan trọng là chất lượng các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân thông qua hoạt động xét xử. Bên cạnh đó, tính dân chủ của phiên tòa, uy tín của người Thẩm phán

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

trong đời sống xã hội, sự tín nhiệm của nhân dân đối với Tòa án nhân dân là những tiêu chí cũng không kém phần quan trọng.

Chương 2

Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay - 5


Tình hình tranh chấp quyền sử dụng đất và

chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân


2.1. Tình hình tranh chấp, giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân và những vấn đề phát sinh

2.1.1. Tình hình tranh chấp và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân

Tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai. Chủ thể của quan hệ tranh chấp này là chủ thể của quá trình quản lý, sử dụng đất đai. Các bên tham gia tranh chấp không phải là chủ sở hữu đất đai mà đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Các bên tham gia tranh chấp được Nhà nước giao đất cho sử dụng trong khuôn khổ pháp luật quy định. Trong những năm qua, tranh chấp quyền sử dụng đất diễn ra ở hầu hết các địa phương trong cả nước. Tuy tính chất và phạm vi khác nhau nhưng đã gây ra những hậu quả nặng nề ảnh hưởng đến trật tự và an toàn xã hội. Vì vậy, phải căn cứ vào thực trạng sử dụng đất, vào đường lối chính sách của Nhà nước, vào các văn bản pháp luật để tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp quyền sử dụng đất. Từ đó có những biện pháp giải quyết một cách thỏa đáng góp phần ngăn ngừa và hạn chế tới mức thấp nhất các tranh chấp có thể xảy ra.

* Theo số liệu thống kê của Văn phòng Tòa án nhân dân tối cao, thì trong các năm từ năm 2000 đến năm 2005, các Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý và giải quyết một số lượng lớn các vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất, cụ thể như sau:

Năm 2000, các Tòa án nhân dân đã thụ lý để giải quyết theo trình tự sơ thẩm

5.562 vụ và đã giải quyết được 4247 vụ, trong đó các Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý 5.430 vụ và đã giải quyết được 4.155 vụ. Các Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý để giải quyết theo trình tự phúc thẩm 132 vụ và đã giải quyết được 92 vụ [31].

Năm 2001, các Tòa án nhân dân đã thụ lý để giải quyết theo trình tự sơ thẩm

8.479 vụ và đã giải quyết được 6.577 vụ, trong đó các Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý 8158 vụ và đã giải quyết được 6.340 vụ. Các Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý để giải quyết theo trình tự phúc thẩm 321 vụ và đã giải quyết được 237 vụ [33].

Năm 2002, các Tòa án đã thụ lý để giải quyết theo trình tự sơ thẩm là 7.887 vụ và đã giải quyết được 5.293 vụ trong đó các Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý 7.608 vụ, giải quyết được 5.106 vụ. Các Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý 279 vụ, giải quyết được 187 vụ [34].

Năm 2003, các Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý để giải quyết theo trình tự sơ thẩm là 13.852 vụ, đã giải quyết được 9.043 vụ, trong đó các Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý 13.516 vụ đã giải quyết được 8.876vụ, các Tòa án nhân dân cấp tỉnh thụ lý 336 vụ, giải quyết được 167 vụ [35].

Năm 2004, các Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý để giải quyết theo trình tự sơ thẩm là 20.467 vụ. đã giải quyết 10.953 vụ, trong đó Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý 19.804 vụ, đã giải quyết 10.705 vụ, Tòa án nhân dân cấp tỉnh thụ lý 663 vụ, đã giải quyết 248 vụ [36].

Năm 2005, các Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý giải quyết theo trình tự sơ thẩm là 16.542 vụ đã giải quyết được 10.362 vụ, trong đó Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý 16.263 vụ đã giải quyết 10.157 vụ, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý 279 vụ giải quyết được 205 vụ [37].

Đánh giá chung việc giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân thời gian qua chúng tôi xin nêu một số nhận xét như sau:

Số lượng các vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất đã được Tòa án nhân dân thụ lý, giải quyết theo chiều hướng ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước, nhiều vụ có tính chất phức tạp, tranh chấp gay gắt kéo dài qua nhiều cấp xét xử. Nhìn chung các Tòa án nhân dân đã tuân thủ các quy định của Bộ luật dân sự, Luật đất đai, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, nhận thức rõ tính đặc thù trong việc giải quyết các vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất, kiên trì hòa giải, do đó

số lượng vụ việc tranh chấp về quyền sử dụng đất được Tòa án nhân dân hòa giải thành chiếm tỉ lệ lớn, góp phần giải quyết nhanh các vụ tranh chấp.

Về cơ bản các Tòa án nhân dân đã áp dụng đúng đắn và thống nhất các quy định của Luật đất đai năm 1987, 1993 và Luật đất đai năm 2003, Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản pháp luật khác về đất đai, các hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao về công tác xét xử các vụ án về tranh chấp quyền sử dụng đất. Đường lối xét xử các tranh chấp về quyền sử dụng đất được các Tòa án nhân dân tuân thủ và áp dụng các văn bản pháp luật tương đối tốt. Nhìn chung, chất lượng giải quyết của tòa án ngày một nâng cao, góp phần quan trọng vào việc ổn định trật tự, an toàn xã hội, phát triển kinh tế, bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được Nhà nước giao quyền sử dụng đất, bảo vệ các giao dịch dân sự hợp pháp trong đời sống xã hội…Phần lớn các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân xét xử các loại tranh chấp về quyền sử dụng đất có căn cứ pháp luật, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, được nhân dân đồng tình, dư luận xã hội ủng hộ và đảm bảo hiệu lực thi hành.

Bên cạnh những mặt tích cực đã nêu trên, công tác xét xử các vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất đai tại Tòa án nhân dân cũng bộc lộ những hạn chế nhất định, có một số ít bản án, quyết định của Tòa án thể hiện chất lượng xét xử chưa tốt, có nhiều vụ án phải xét xử đi xét xử lại nhiều lần.

Các sai phạm không chỉ giới hạn ở việc áp dụng pháp luật về đất đai mà còn xảy ra trong quá trình áp dụng pháp luật về tố tụng.

Đã có một số trường hợp Tòa án xác định không đúng thẩm quyền giải quyết của mình nên đã thụ lý cả những việc thuộc thẩm quyền của ủy ban nhân dân, không xác định đúng tư cách của các đương sự trong vụ án nên không đưa người có quyền, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng. Ngoài ra còn có các vi phạm về thủ tục tố tụng khác trong quá trình Tòa án thụ lý điều tra, lập hồ sơ, xét xử như: đo đạc diện tích đất không chính xác, định giá đất quá thấp vi phạm quyền tự định đoạt của đương sự…, dẫn đến hậu quả bản án, quyết định của Tòa án bị kháng cáo, kháng nghị nhiều. Điều đó nói lên rằng trong quá trình giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất, Tòa án còn có những hạn chế, lúng túng khi áp dụng văn bản pháp luật về đất đai, pháp luật về dân sự,

pháp luật về tố tụng dân sự, đường lối chính sách của Nhà nước về đất đai trong từng giai đoạn lịch sử…dẫn đến bản án, quyết định của Tòa án còn chưa chính xác, khách quan. Tình trạng này phản ánh một sự thực khách quan là năng lực, trình độ chuyên môn của một bộ phận Thẩm phán xét xử của Tòa án nhân dân còn hạn chế. Chưa đáp ứng được nhu cầu, nhiệm vụ đề ra. Đó là một trong nhiều nguyên nhân làm ảnh hưởng tới uy tín của Tòa án.

2.1.2. Những vấn đế phát sinh trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại tòa án nhân dân

* Vấn đề phát sinh do sự thay đổi của chế độ sở hữu đất đai:


Chế độ sở hữu đất đai là nền tảng để xây dựng cơ chế quản lý đất đai và chế độ sử dụng đất đai. Đất đai thực chất là một loại của cải mà thiên nhiên "cho không" loài người, nó không phải là thành quả lao động, tuy thông qua lao động con người có thể thay đổi hoặc nâng cao giá trị sử dụng của nó và chỉ khi có sự kết hợp với lao động, đất đai mới trở thành có ích thực sự. ở nước ta chế độ sở hữu đất đai đã thay đổi căn bản trong quá trình phát triển của cách mạng. Từ chỗ đa dạng về hình thức sở hữu nay chỉ còn một hình thức sở hữu đất đai thuần nhất. "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu" [24].

Đất đai thuộc sở hữu toàn dân tức là tài sản chung của mọi người chứ không phải của riêng ai. Chỉ có Nhà nước thay mặt toàn xã hội mới là người chủ sở hữu thực hiện đầy đủ mọi quyền năng của người chủ sở hữu đó. Đó là các quyền: Chiếm hữu đất đai, sử dụng đất đai, định đoạt đất đai.

Quyền chiếm hữu đất đai là quyền Nhà nước- chiếm giữ thực tế vốn đất đai trong cả nước, làm cơ sở cho quyền sử dụng và quyền định đoạt.

Quyền chiếm hữu đất đai của Nhà nước là vĩnh viễn và trọn vẹn trên toàn lãnh thổ, còn người sử dụng đất chỉ được chiếm giữ đất đai để sử dụng phù hợp với những điều kiện cụ thể do Nhà nước quy định. Nhà nước có thể thu hồi vì lợi ích của toàn xã hội theo quy định của pháp luật.

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 26/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí