Quyền sử dụng đất đai là quyền khai thác những thuộc tính có ích của đất đai phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân… Nhà nước không trực tiếp sử dụng toàn bộ đất đai mà giao một phần cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng. Người được giao sử dụng đất hợp pháp ngoài các quyền chiếm giữ, sử dụng còn có các quyền, đó là: quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, được bồi thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất.
Quyền sử dụng đất của Nhà nước là không bị hạn chế vì xuất phát từ lợi ích tối cao của toàn dân. Quyền sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được quy định cụ thể về thời gian, không gian và mục đích. Pháp luật cho phép trong một số trường hợp Nhà nước có thể hủy bỏ quyền sử dụng đất trên những khu vực cụ thể. Quyền chiếm hữu đất đai gắn liền với quyền sử dụng đất đai. Chiếm hữu mà không sử dụng là vi phạm pháp luật.
Quyền định đoạt đất đai là quyền quyết định số phận pháp lý của đất đai. Nhà nước thực hiện quyền năng này thông qua việc quyết định mục đích sử dụng, giao đất và thu hồi đất.
Luật đất đai năm 2003 quy định: "Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất" [24].
Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho, cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Các quyền nói trên chỉ được thực hiện trong thời hạn giao đất và đúng mục đích sử dụng của đất được giao theo quy định của Luật Đất đai và các quy định khác của pháp luật.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho người sử dụng đất theo mẫu thống nhất trong cả nước đối với mọi loại đất. Trường hợp có tài sản gắn liền với đất thì
tài sản đó được ghi nhận trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chủ sở hữu tài sản phải đăng ký quyền sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật về đăng ký bất động sản, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Bộ tài nguyên và môi trường phát hành và được cấp cho từng thửa đất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là căn cứ pháp lý quan trọng nhất để xác định ai là người sử dụng đất hợp pháp và là cơ sở để họ thực hiện các quyền nói trên. Khi có tranh chấp đến Tòa án nhân dân thì họ phải xuất trình giấy này để chứng minh việc họ có đủ điều kiện pháp lý để thực hiện các quyền. Đây cũng là điều kiện để xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai 1993 [21].
Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất hoàn toàn khác với việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp các tài sản khác. Đối với đất đai, người sử dụng chỉ được thực hiện các quyền trên mà thôi; đặc biệt là không được xâm hại đến quyền sở hữu của Nhà nước. Nhà nước quy định rất chặt chẽ các điều kiện để người sử dụng đất hợp pháp thực hiện các giao dịch đó. Tòa án phải xem xét toàn diện các quy định của Bộ luật dân sự và của các văn bản pháp luật về đất đai để xác định giá trị pháp lý của mỗi loại giao dịch có liên quan đến quyền sử dụng đất.
* Vấn đề phát sinh do sự thay đổi của các quy định của pháp luật dân sự và pháp luật đất đai:
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm, Đặc Điểm Và Quy Trình Áp Dụng Pháp Luật Trong Việc Giải Quyết Các Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất Tại Tòa Án Nhân Dân
- Tiêu Chí Đánh Giá Và Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Trong Việc Giải Quyết Các Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất Tại Tòa Án
- Tình Hình Tranh Chấp, Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất Tại Tòa Án Nhân Dân Và Những Vấn Đề Phát Sinh
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay - 7
- Nguyên Nhân Hạn Chế Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Giải Quyết Các Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất
- Quan Điểm Nâng Cao Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Trong Việc Giải Quyết Các Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất Tại Tòa Án Nhân Dân
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
Pháp luật về đất đai ở nước ta đã trải qua các giai đoạn phát triển, biến đổi khác nhau. Mỗi giai đoạn lịch sử, Nhà nước xây dựng một hệ thống các văn bản pháp luật tương ứng. Các giao dịch dân sự có liên quan đến quyền sử dụng đất phát sinh trên cơ sở pháp luật đó. Thực tế ở nước ta tồn tại các mối quan hệ quá độ đan xen nhau. Nhiều loại giao dịch dân sự phát sinh ở thời kỳ trước tương ứng với quan hệ giao dịch dân sự ở thời kỳ này nhưng lại được thực hiện và nảy sinh tranh chấp ở thời kỳ sau mà ở đó đã có các văn bản pháp luật mới thay thế các văn bản pháp luật ở thời điểm phát sinh giao dịch. Vì vậy rất phức tạp khi áp dụng các văn bản pháp luật để giải quyết tranh chấp.
Tính chất quá độ nói trên phải được Tòa án nhân dân tôn trọng để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự có liên quan đến
quyền sử dụng đất mà các giao dịch đó được giao kết theo các quy định tại các văn bản pháp luật trước thời điểm tranh chấp, cụ thể là:
- Giao kết theo luật cũ-tranh chấp và khởi kiện tại thời điểm có luật mới-việc áp dụng văn bản pháp luật nào để giải quyết các tranh chấp là vấn đề phức tạp, phải được quan tâm, xử lý thỏa đáng.
- Các quan hệ đất đai có nhiều chủ thể tham gia.Trong điều kiện nền kinh tế nước ta phát triển theo cơ chế thị trường có nhiều chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự, thương mại, quyền sử dụng đất là đối tượng của giao dịch dân sự nên chủ thể của các giao dịch có liên quan đến quyền sử dụng đất cũng được mở rộng; có thể bao gồm: tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong đó có thể là người Việt Nam hoặc là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân người nước ngoài đầu tư tại Việt Nam tham gia.
ở Việt Nam, giá đất (giá trị quyền sử dụng đất) gồm nhiều loại giá khác nhau. Chúng ta không coi đất đai là hàng hóa nên không định giá đất mà chỉ xác định giá trị quyền sử dụng đất. Với ý thức quản lý giá nên nhà nước quy định khung giá các loại đất và buộc người sử dụng đất khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải căn cứ vào khung giá đất do Nhà nước định ra. Nhưng thực tế thì phần lớn các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác định giá đất theo giá thị trường. Việc tồn tại nhiều loại giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở nước ta chưa được quy định rõ trong các văn bản pháp luật là loại giá nào áp dụng cho các quan hệ pháp luật nào nên ảnh hưởng đến việc xác định hiệu lực của các giao dịch có liên quan.
2.2. Chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ họp thứ 9 quốc hội khóa XI đã đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác của các Tòa án như sau:
Trong công tác giải quyết các vụ án dân sự, do Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 có nhiều quy định mới, chặt chẽ hơn trước về thủ tục tố tụng, đặc biệt là các quy định về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, giám định, định giá tài
sản. Trong khi đó nhiều cơ quan nhà nước, đương sự chưa quen và chưa thực hiện tốt các quy định mới này, nên việc xây dựng hồ sơ và giải quyết các vụ án gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của các Tòa án. Tuy vậy, để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ của mình, các Tòa án đã kiên trì giải thích, hướng dẫn các đương sự, các cơ quan, tổ chức thực hiện đúng các quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tài liệu liên quan vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ án, các Tòa án đã làm rõ các quan hệ có tranh chấp, tích cực xác minh, thu thập chứng cứ, trong những trường hợp cần thiết tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan, nắm vững và thực hiện đúng các quy định của bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản pháp luật liên quan nhằm giải quyết đúng đắn vụ án, đồng thời kiên trì hòa giải giữa các đương sự trên cơ sở pháp luật nên tỷ lệ hòa giải trong việc giải quyết các vụ việc dân sự đạt khá cao [42].
Thực tế cho thấy, mặc dù số lượng các vụ án dân sự phải thụ lý là rất lớn, phức tạp và tăng nhanh, các Tòa án gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ vụ án nhưng Tòa án đã nắm vững các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, làm tốt việc hướng dẫn và giải thích pháp luật để họ hiểu về quyền và nghĩa vụ của mình, tích cực xác minh thu thập chứng cứ trong những trường hợp cần thiết và tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan, nên hầu hết các vụ, việc dân sự được giải quyết trong thời hạn quy định của pháp luật, từng bước khắc phục tình trạng để án tồn đọng, quá hạn luật định.
Tuy nhiên, từ thực tế giải quyết các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất tại tòa án nhân dân cho thấy chất lượng áp dụng pháp luật có những ưu điểm, hạn chế sau đây.
2.2.1. Những ưu điểm của việc đảm bảo chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của công dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong những năm qua, mặc dù các vụ việc dân sự mà các Tòa án phải thụ lý giải quyết tăng,
nhưng do nắm vững và thực hiện đúng các quy định của pháp luật, đặc biệt là Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật dân sự, Luật lao động, Luật phá sản… và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành các đạo luật này, các Tòa án đã không ngừng nâng cao chất lượng xây dựng hồ sơ vụ án, làm rõ yêu cầu của đương sự trong vụ án, tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan, thực hiện tốt phương châm kiên trì hòa giải đúng pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, giúp cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng, dứt điểm, góp phần giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữ gìn và tăng cường đoàn kết trong mỗi gia đình và cộng đồng dân cư. Tỷ lệ hòa giải thành chung trong toàn ngành Tòa án đạt 40%, trong đó có nhiều Tòa án có tỷ lệ hòa giải đạt tới 50-60% trong tổng số các vụ án đã giải quyết. Hầu hết các loại án này đều được giải quyết đạt và vượt chỉ tiêu xét xử đã đề ra. Công tác giải quyết các vụ việc dân sự nói chung được thực hiện đúng quy định của pháp luật, về cơ bản đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Việc áp dụng pháp luật và đường lối giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất đã có sự thống nhất giữa các Tòa án. Việc xây dựng pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật cũng đã đạt được kết quả đáng khích lệ góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở để pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn, phục vụ đắc lực công tác chuyên môn. Các dự thảo Luật được chuẩn bị công phu, kịp thời, đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng. Việc ban hành các Thông tư liên tịch và các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán đã góp phần tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật, thông qua đó nâng cao chất lượng công tác xét xử đối với công tác xét xử của ngành Tòa án nhân dân nói chung và việc giải quyết các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng.
So với các tiêu chí để đánh giá chất lượng xét xử, những ưu điểm của ngành Tòa án trong những năm qua đã tạo được những ấn tượng tốt đẹp trong đời sống xã hội. Những phiên tòa mẫu với việc tranh luận công khai dân chủ, những bản án "thấu tình, đạt lý" đầy tính thuyết phục đã đi vào đời sống nhân dân, tạo nên niềm tin vào công lý xã hội chủ nghĩa, vào lẽ phải và sự công bằng xã hội. Công việc xét xử của Thẩm phán đã dần được xã hội nhìn nhận như một nghề cao quý, vinh dự. Cơ quan Tòa án nhân dân ở nước ta thực sự là địa chỉ tin cậy của quần chúng nhân dân trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng theo quy định của pháp luật.
Thực tiễn việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân trong thời gian qua cho thấy đội ngũ Thẩm phán ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét, đánh giá chứng cứ, tổ chức phiên tòa, lựa chọn và áp dụng đúng các quy phạm pháp luật và ban hành bản án, quyết định đúng pháp luật ngày càng được nâng cao đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới. Với những ưu điểm đã đạt được trong công tác xét xử trong thời gian qua, ngành Tòa án nhân dân nước ta hoàn toàn có đủ các điều kiện cần thiết để thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng, nhiệm vụ mà hiến pháp và pháp luật đã giao, xứng đáng trở thành cơ quan trung tâm của hoạt động tư pháp trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Thông qua việc xét xử, Tòa án nhân dân giáo dục pháp luật cho đương sự và những người khác.
2.2.2. Hạn chế trong việc đảm bảo chất lượng áp dụng pháp luật khi giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
Thứ nhất, hạn chế về việc đảm bảo chất lượng áp dụng pháp luật về
tố tụng.
- Không áp dụng đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự để xác định
tính xác thực của các chứng cứ do đương sự xuất trình trong quá trình giải quyết vụ án.
Mặc dù đã được lưu ý trong các hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm trước đây nhưng đến nay trong một số hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ do đương sự xuất trình chỉ là bản photocopy, trong khi những tài liệu, chứng cứ này có tính chất rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc giải quyết vụ án như: giấy vay nợ, giấy xác nhận số tiền còn nợ, di chúc, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất... nhưng những tài liệu photocopy này không có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền là đã sao y bản chính... Không ký xác nhận (đã đối chiếu với bản chính của Thẩm phán nhận tài liệu) hoặc người nhận tài liệu có ký nhưng không ghi rõ chức danh, họ và tên, không lập biên bản về việc thu nhận tài liệu... làm cho việc xem xét đánh giá chứng cứ, xác định đường lối xử lý vụ án gặp khó khăn và không bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.
- Có vụ án tài liệu, chứng cứ, rõ ràng có sửa chữa, tẩy xóa đương sự có yêu cầu Tòa án cho giám định và đồng ý nộp tiền giám định nhưng Tòa án không cho tiến hành giám định, dẫn đến sau khi xét xử phúc thẩm đương sự khiếu nại bản án và tiếp tục yêu cầu được giám định nên bản án đã bị kháng nghị. Đối với trường hợp đương sự yêu cầu giám định và đã được Toà án giải thích nhưng đương sự vẫn không nộp tiền chi phí giám định thì Tòa án phải lập biên bản để lưu trong hồ sơ.
- Có một số trường hợp nguyên đơn hoặc bị đơn đã chết trong quá trình tố tụng và họ có người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng nhưng Tòa án vẫn xác định người đã chết là nguyên đơn hoặc bị đơn là không chính xác. Trong trường hợp này cần phải ghi rõ nguyên đơn: Nguyễn Văn A đã chết có Nguyễn Văn X là người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng.
áp dụng không đúng quy định của pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án hành chính nên Tòa hành chính cấp sơ thẩm thụ lý vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất nhưng lại bị Tòa hành chính cấp phúc thẩm xử hủy bản án sơ thẩm chuyển hồ sơ cho Tòa dân sự thụ xét xử. Sau khi Tòa dân sự xét xử sơ thẩm vụ án thì lại Tòa án cấp phúc thẩm xử hủy bản án sơ thẩm để chuyển hồ sơ cho Tòa hành chính xét xử làm cho vụ án bị chuyển qua chuyển lại từ Tòa dân sự sang Tòa hành chính và ngược lại, việc giải quyết bị kéo dài gây khó khăn cho các đương sự.
Do không nghiên cứu kỹ hồ sơ dẫn đến có một số vụ án khi xét xử Tòa án bỏ sót người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Ngược lại, cũng có một số trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm với lý do cần đưa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng trong khi những người này không có quyền lợi nghĩa vụ nào liên quan đến vụ án, như vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán giữa nguyên đơn là bà Neáng Neng và bị đơn là ông Phạm Huy Hoàng.
Ông Nguyễn Công Thành là người trông giữ họ nhà đất cho vợ chồng ông Châu Sóc và bà Neáng Neng. Ông Thành đã bán nhà đất nêu trên cho bà Lương Thị Bé. Vợ chồng ông Châu Sóc và bà Neáng Neng đã kiện đòi bà Bé trả lại nhà. Tại quyết định công nhận việc hòa giải thành (không số) ngày 26/10/1982 của Tòa án nhân dân huyện
T đã quyết định công nhận sự thỏa thuận của hai bên. Quyết định này đã được thi hành xong. Sau khi nhận nhà đất, ngày 18/11/1982 ông Châu Sóc viết giấy bán nhà đất cho ông Phạm Huy Hoàng với giá 40.000 đồng, ông Hoàng đã sử dụng nhà đất từ năm 1982 cho đến nay và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 27/02/2003 bà Neáng Neng có đơn khởi kiện xin hủy "giấy nhượng đất ở và bán nhà...". Tòa án nhân dân tỉnh A (bản án số 367/DSPT ngày 14/09/2004) đã hủy bản án sơ thẩm với lý do phải đưa ông Thành và bà Bé vào tham gia tố tụng là sai, vì quan hệ giữa vợ chồng ông Châu Sóc với ông Thành, bà Bé đã giải quyết xong tại quyết định hòa giải thành. Ông Thành, bà Bé không còn liên quan đến vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà đất, nên việc Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm đưa ông Thành và bà Bé vào tham gia tố tụng là không đúng.
Như vậy, việc xác định ai là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ việc dân sự phải căn cứ vào khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự để quyết định. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc tuy không phải là người yêu cầu, người khởi kiện, người bị kiện nhưng khi giải quyết vụ việc dân sự sẽ dẫn đến họ là người được hưởng quyền hoặc phải thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quyết định của Tòa án. Vì vậy, trong trường hợp này Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng.
Việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 01/07/1991 mà có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia đang có nhiều vấn đề vướng mắc và có nhiều quan điểm khác nhau về việc áp dụng pháp luật, chúng tôi đưa một vụ án làm ví dụ.
Theo đơn khởi kiện và lời trình bày của ông Chiến thì nguồn gốc nhà đất số 280/109 Bùi Hữu Nghĩa, phường 2 quận Bình Thạnh thành phố Hồ Chí Minh do vợ chồng ông Ngô Văn Nhỡ và bà Nguyễn thị Cảnh xây năm 1954. Ông Nhỡ, bà Cảnh có người con duy nhất là anh Ngô Văn Chiến. Ngày 25/03/1984 ông Nhỡ chết không để lại di chúc. Ngày 20/12/2001 bà Cảnh ký giấy sang nhượng nhà đất nói trên cho ông Văn, bà Loan. Ngày 03/05/2002 bà Cảnh được cấp giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ngày 05/09/2002 bà Cảnh ký hợp đồng tặng cho nhà đất nói trên cho ông Văn, bà Loan. Ngày 02/06/2003 anh Chiến là người con duy nhất của ông Nhỡ, bà Cảnh hiện đang cư