1.2. Khái niệm, đặc điểm và quy trình áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân
Theo pháp luật hiện hành thì xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng riêng có của Tòa án nhân dân. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân là hoạt động trung tâm và chủ yếu của hoạt động tư pháp. áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án là một nội dung cụ thể, đặc biệt và quan trọng của hình thức áp dụng pháp luật nói chung. áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân hiện nay là việc thực hiện pháp luật của Thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án để ban hành các bản án, quyết định nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phán xét, phân xử đúng, sai, xác định tính có căn cứ hay không có căn cứ, có hợp pháp hay không hợp pháp đối với các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật. Xét xử là chức năng đặc biệt của Tòa án, "Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [20, tr. 3].
Có thể thấy rằng, Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất được giao quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và hành chính nên hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân chính là hoạt động áp dụng pháp luật trong các lĩnh vực giải quyết vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và hành chính. Khi giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất, hội đồng xét xử có quyền và nghĩa vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án và tiến hành xét xử, đánh giá tính hợp pháp, tính có căn cứ đối với việc yêu cầu của đương sự có căn cứ pháp lý hay không? Ai là người có quyền sử dụng đất đó? Có quyền lựa chọn các văn bản, quy phạm pháp luật phù hợp, chính xác và ban hành các bản án, quyết định nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể pháp luật hoặc buộc các chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Trong đời sống xã hội, tranh chấp quyền sử dụng đất phát sinh giữa các chủ thể quan hệ pháp luật (gọi chung là các đương sự) bởi do đất đai là tài sản có giá trị lớn đối với các bên đương sự, việc tranh chấp thắng hay thua có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống, kinh tế và hoạt động kinh doanh của họ. Trong quá trình tranh chấp luôn tồn tại một hoặc tất cả các bên đương sự không thực hiện theo các quy định của pháp luật. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng tựu trung lại có các nguyên nhân chính sau:
- Khi các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về cách thức giải quyết tranh chấp phát sinh, một bên hoặc các bên đương sự không muốn thực hiện đúng các quy phạm pháp luật.
- Khi tranh chấp quyền sử dụng đất, không phải đương sự nào cũng biết hoặc cũng hiểu được các quy phạm pháp luật của Bộ luật dân sự, Luật đất đai cũng như các hướng dẫn thi hành Luật đất đai, vì vậy họ hành xử một cách tự nhiên, bột phát theo thói quen cuộc sống đời thường. Đây là tình trạng phổ biến nhất đối với các loại quan hệ pháp luật dân sự nói chung cũng như quan hệ pháp luật về đất đai nói riêng. Bên cạnh đó, hệ thống quy phạm pháp luật dân sự về giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất có số lượng lớn, quy định lại chung chung, không rõ ràng nên cần có nhiều văn bản dưới luật như Nghị định của Chính phủ; Thông tư liên ngành; Nghị quyết của hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành.
- Khi các tranh chấp quyền sử dụng đất xảy ra, nếu các đương sự không tự giải quyết được thì họ có quyền gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án giải quyết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Sau khi nhận được đơn khởi kiện của đương sự, Tòa án tiến hành thụ lý vụ án và giải quyết theo trình tự mà pháp luật tố tụng dân sự quy định như thẩm tra, xác minh các tình tiết liên quan đến vụ án; lựa chọn quy phạm pháp luật điều chỉnh để giải quyết vụ án và cuối cùng là ra bản án, quyết định buộc các đương sự thi hành bằng các hình thức tự nguyện thi hành hoặc có sự cưỡng chế thi hành của cơ quan thi hành án dân sự.
áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất, ngoài cơ quan Tòa án còn có sự tham gia của cơ quan Viện kiểm sát và cơ quan thi hành án
dân sự cùng giữ vai trò là chủ thể của hoạt động áp dụng pháp luật. Nếu thiếu sự tham gia của các chủ thể này thì có thể sẽ dẫn tới việc áp dụng pháp luật không chính xác, khách quan và triệt để. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân luôn là chủ thể chủ yếu trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay - 1
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay - 2
- Tiêu Chí Đánh Giá Và Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Trong Việc Giải Quyết Các Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất Tại Tòa Án
- Tình Hình Tranh Chấp, Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất Tại Tòa Án Nhân Dân Và Những Vấn Đề Phát Sinh
- Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Trong Việc Giải Quyết Các Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất Tại Tòa Án Nhân Dân
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
Qua sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân là hình thức thực hiện pháp luật mang tính tổ chức, tính quyền lực của Nhà nước được thực hiện thông qua Hội đồng xét xử, do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chủ trì nhằm xác định sự thật khách quan, phân xử đúng, sai, xác định tính có căn cứ hay không có căn cứ để ban hành các bản án, quyết định nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự góp phần ổn định trật tự xã hội và củng cố mối đoàn kết trong nội bộ nhân dân.
áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân và tổ chức, góp phần to lớn vào việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
1.2.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân là sự biểu hiện cụ thể của việc áp dụng pháp luật dân sự và pháp Luật đất đai nói chung. Vì vậy, nó mang đầy đủ các đặc điểm của áp dụng pháp luật (đã trình bày cụ thể ở mục 1.1.2.). Tuy nhiên, với tính chất phong phú đa dạng của các quan hệ pháp luật dân sự về đất đai cùng với những quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc tranh chấp quyền sử dụng đất do pháp luật tố tụng dân sự quy định thì áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân có những đặc điểm riêng biệt, đó là:
- ở giai đoạn đầu tiên của quy trình áp dụng pháp luật là tiến hành thu thập chứng cứ, lấy lời khai của đương sự và tiến hành một số hoạt động tố tụng khác để làm rõ các tình tiết liên quan đến tranh chấp quyền sử dụng đất. Tòa án nhân dân là chủ thể chủ yếu của hoạt động này. Hoạt động đối chất, xem xét, thẩm định tại chỗ, ủy thác thu thập chứng cứ là nhiệm vụ của Tòa án chứ không phải của các cơ quan điều tra như trong tố tụng hình sự, Tòa án tiến hành một số hoạt động tố tụng theo một trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự nói chung và trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án.
Sự khác nhau giữa hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự và hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trong tố tụng dân sự, không chỉ đơn thuần ở chủ thể của hoạt động mà còn thể hiện ở nhiệm vụ điều tra. Nếu như trong tố tụng hình sự, việc chứng minh tội phạm là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, thì trong tố tụng dân sự nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là thuộc về đương sự. Xuất phát từ nguyên tắc quyền tự định đoạt của các đương sự cũng như tính chất, đặc điểm của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, khi Tòa án nhân dân thụ lý giải quyết vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất thì Tòa án nhân dân đã có hồ sơ về vụ tranh chấp quyền sử dụng đất đó. Khi khởi kiện, bên nguyên đơn và bên bị đơn đều phải có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ liên quan và tự chứng minh yêu cầu của mình. Trường hợp cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội khởi kiện thì Tòa án nhân dân cũng yêu cầu các chủ thể này cung cấp những tài liệu, chứng cứ cần thiết và Tòa án chỉ tiến hành xác minh, thu thập những chứng cứ trong trường hợp cần thiết do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Trong nhiều trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập chứng cứ, nhất là các chứng cứ có liên quan đến việc quản lý hồ sơ của các cơ quan nhà nước thì Tòa án phải làm thay họ.
Việc quy định nhiệm vụ xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án nhân dân trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất như trên là cơ sở để Tòa án nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ tố tụng của mình, mặt khác tạo điều kiện cho những người tham gia tố
tụng khác thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định. Thực trạng ở nước ta hiện nay trình độ dân trí nói chung, sự hiểu biết pháp luật nói riêng của các đương sự chưa cao, cho nên Tòa án nhân dân cần phải tích cực giúp đỡ, hướng dẫn đương sự hiểu rõ quyền lợi hợp pháp của họ, trên cơ sở đó thực hiện tốt nghĩa vụ chứng minh.
- Hoạt động áp dụng pháp luật nói chung được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn phương của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể bị áp dụng pháp luật. Trong quan hệ pháp luật dân sự, chủ thể chủ yếu của tranh chấp quyền sử dụng đất là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình. Xuất phát trừ nguyên tắc bình đẳng và quyền tự định đoạt của các đương sự, Tòa án nhân dân với vai trò là chủ thể chính của hoạt động áp dụng pháp luật chỉ là "trọng tài" trong việc giải quyết tranh chấp giữa các bên đương sự. Trước khi đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa, Tòa án nhân dân phải tiến hành hòa giải, chỉ khi nào các bên đương sự (với sự trung gian hòa giải của Tòa án nhân dân) không tự giải quyết được tranh chấp với nhau thì Tòa án nhân dân mới đưa ra phán quyết trên cơ sở pháp luật để bảo vệ quyền và các lợi ích chính đáng của các đương sự buộc bên vi phạm phải thực hiện. Khi các đương sự không tự giác thi hành phán quyết của Tòa án nhân dân thì mới thực hiện sự cưỡng chế của cơ quan thi hành án.
- Khi áp dụng pháp luật đối việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất, pháp luật có quy định nguyên tắc áp dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp luật. Đây là đặc điểm riêng biệt, khác hẳn với áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các loại vụ án khác. Nguyên tắc này xuất phát từ tính đa dạng, phong phú, phức tạp của các quan hệ dân sự, đặc biệt là trong tranh chấp quyền sử dụng đất. Pháp luật không thể dự liệu hết được mọi tình huống, trường hợp phát sinh trong thực tế, khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, nhưng Tòa án không thể từ chối đơn yêu cầu giải quyết vì lý do pháp luật chưa có quy định cụ thể.
- Trước đây, giai đoạn tổ chức thi hành án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân, nhưng từ ngày 01 tháng 10 năm 1993, Pháp lệnh thi hành án dân sự mới có hiệu lực thì thẩm quyền thi hành các văn bản áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất thuộc về cơ quan thi hành án dân sự. Như vậy, hiện nay áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự nói chung, trong việc giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất nói riêng của Tòa án nhân dân chỉ bao gồm ba giai đoạn: giai đoạn xác minh, thu thập chứng cứ, giai đoạn lựa chọn quy phạm pháp luật và giai đoạn ban hành văn bản áp dụng pháp luật.
1.2.3. Quy trình áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
Để áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân được chính xác, đạt hiệu quả cao, cần tiến hành theo những giai đoạn sau:
*Giai đoạn thứ nhất: nghiên cứu, phân tích, đánh giá các tình tiết, tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ việc
Đây là bước đầu tiên, có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở cho việc cho việc áp dụng pháp luật chính xác trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân. Việc xem xét, đánh giá, đối chiếu các chứng cứ không toàn diện, khách quan, thận trọng thì rất dễ dẫn đến những sai lầm khi ban hành văn bản áp dụng pháp luật.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì việc nghiên cứu hồ sơ của người Thẩm phán là công việc không thể thiếu được trước khi tiến hành giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân. Trong khi nghiên cứu hồ sơ, người Thẩm phán cần có phương pháp nghiên cứu phù hợp mới có thể nắm vững nội dung cơ bản cần giải quyết. Không nắm được trọng tâm, yêu cầu cơ bản cần giải quyết của vụ việc, người Thẩm phán sẽ không thể có phương hướng đúng đắn để xem xét, đánh giá các chứng cứ; các tài liệu, thông tin được thu thập qua nghiên cứu hồ sơ không kết nối thành một thể thống nhất. Để có sự đánh giá mang tính khách quan và toàn diện, cần có phương pháp nghiên cứu đúng đắn. Người Thẩm phán sẽ rất dễ ràng phát hiện các thông tin, các tình tiết chủ yếu của vụ việc thông qua hồ sơ vụ án. Từ đó, việc phân loại đánh giá chứng cứ trực tiếp, chứng cứ gián tiếp, chứng cứ có ý nghĩa quyết định, chứng cứ có ý nghĩa bổ trợ, liên quan…cũng sẽ dễ dàng và thuận lợi.
Thông thường, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất cần được tiến hành từ yêu cầu khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ của bên nguyên đơn trước. Xuất phát từ yêu cầu khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo Tòa án xác định cụ thể
vấn đề họ yêu cầu, các tài liệu kèm theo có độ tin cậy hay không, còn thiếu những tài liệu gì, mức độ chứng minh của của các tài liệu này như thế nào. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nhân chứng của bên nguyên đơn, bên bị đơn đã khai báo những gì…Cũng tương tự, việc nghiên cứu, xem xét các tài liệu chứng cứ liên quan phía bị đơn nhằm làm sáng tỏ lý lẽ, chứng cứ phản bác yêu cầu của nguyên đơn có hay không có cơ sở; mức độ chứng minh và độ tin cậy của các tài liệu chứng cứ do bị đơn xuất trình ra sao, có cần phải thu thập thêm tài liệu, chứng cứ mới hay không... Nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ việc sẽ giúp cho người Thẩm phán có được sự tự tin và tính chủ động hơn, giúp việc áp dụng pháp luật có chất lượng tốt hơn.
* Giai đoạn thứ hai: Tìm lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp với vấn đề cần giải quyết của vụ việc
Tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật là đối chiếu tình tiết sự việc xảy ra với quy phạm pháp luật để điều chỉnh phù hợp. Có hay không có quy phạm pháp luật điều chỉnh? quy pháp luật điều chỉnh còn hiệu lực không? nếu chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh thì có quy phạm pháp luật nào gần giống để áp dụng tương tự hay không?
Trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân nói chung, trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng, việc tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng là một giai đoạn bắt buộc, có ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm tính đúng đắn và hợp pháp của quyết định khi ban hành. Hiện nay số lượng văn bản quy phạm pháp luật liên quan lĩnh vực quản lý đất đai được Nhà nước ta ban hành là rất lớn để đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý đất đai. Vì vậy, người Thẩm phán cần có sự tích lũy và cập nhật văn bản pháp luật đất đai, văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực đất đai nhằm phục vụ tốt cho việc tra cứu, tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp khi xem xét giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất. Tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai thường là việc không đơn giản vì số lượng văn bản trong lĩnh vực này là rất lớn và khá phức tạp. Việc tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật không chỉ dựa trên các văn bản quy phạm pháp luật do các đương sự cung cấp mà còn phải nghiên cứu mở rộng ra các văn bản khác có liên quan; tìm hiểu xem văn bản quy phạm pháp luật đó có còn hiệu lực không hay đã được sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ chưa? nếu là bản sao thì phải đối chiếu với văn bản gốc để đảm bảo tính chính xác khi áp dụng. Sau đó, nghiên cứu
kỹ nội dung văn bản quy phạm pháp luật cần áp dụng để giải quyết vụ án là một bước quan trọng không thể bỏ qua.
Việc tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật chính xác, đúng đắn và phù hợp để áp dụng khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất đảm bảo cho việc ra bản án, quyết định chính xác, phù hợp là việc làm quan trọng của người Thẩm phán. Việc tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật phải trở thành kỹ năng nghề nghiệp của người Thẩm phán qua quá trình áp dụng pháp luật từ thực tiễn. Chính kỹ năng nghề nghiệp và sự nhanh nhạy của người Thẩm phán sẽ mách bảo quy phạm pháp luật nào cần phải xem xét, nghiên cứu để áp dụng. Kỹ năng nghề nghiệp càng ở trình độ cao thì việc tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp càng nhanh nhạy và càng chính xác.
* Giai đoạn thứ ba: Ban hành văn bản áp dụng pháp luật
Ban hành văn bản áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân chính là việc ban hành bản án, ban hành quyết định giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa các đương sự. Bản án và quyết định của Hội đồng xét xử được ban hành sau khi đã điều tra, xác minh, xem xét, đối chiếu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và qua thẩm tra, tranh luận công khai tại phiên tòa có giá trị phán xét, phân xử nhằm giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật.
Người Thẩm phán ban hành văn bản áp dụng pháp luật, giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất phải biết tổng hợp các tình tiết vụ việc một cách chính xác, lôgic từ việc đối chiếu các chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ với các lời khai, tài liệu đã được xem xét tại phiên tòa thì mới chọn được quy phạm pháp luật một cách chính xác để ban hành bản án và quyết định một cách đúng đắn. Bản án, quyết định giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân phải đảm bảo khách quan, nghiêm minh, đúng pháp luật, nhưng có tình, có lý, có tính thuyết phục lòng người; nội dung, hình thức bản án phải theo đúng quy định của pháp luật. Cách lập luận, phân tích, đánh giá, nhận định bằng lời văn trong sáng. Chất lượng của bản án, của quyết định là một trong những thước đo rất quan trọng để đánh giá chất lượng áp dụng pháp luật trong