dẫn doanh nghiệp về lập kế hoạch kinh doanh, quản lý ngân quỹ, lập dự án, thủ tục vay vốn, kiểm toán năng lượng, củng cố tài sản, đánh giá thiết bị và các thông tin liên quan đến hoạt động tín dụng… ; Mở các khóa đào tạo về quản trị doanh nghiệp cho các chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hỗ trợ để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều cơ hội tham gia các hội thảo, hội chợ, triển lãm, sự kiện bình chọn doanh nghiệp trong và ngoài nước, làm tăng vị thế và hình ảnh doanh nghiệp của mình.
5 Củng cố và hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng
Trong thời đại ngày nay, muốn thành công trong kinh doanh cần có những thông tin hữu ích. Khi mà tính kém minh bạch trong các hoạt động kinh doanh tại Việt Nam còn khá phổ biến thì yêu cầu thiết lập kho dữ liệu thông tin nhằm sử dụng cho hoạt động kinh doanh là hết sức cần thiết.
Mặc dù trong những năm gần đây, Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước và Trung tâm thông tin tín dụng của Vietcombank đã có nhiều nỗ lực trong tạo lập kho dữ liệu về các doanh nghiệp vay vốn cũng như xây dựng đánh giá về các ngành sản xuất kinh doanh, làm cơ sở cho việc phân tích tín dụng nhưng chất lượng của kho dữ liệu này còn nhiều hạn chế. Thông tin tín dụng mới chỉ tập trung vào nội dung phản ánh, ít có tính dự báo, ít đưa ra các giải pháp phòng ngừa và không phản ánh được đặc thù tình hình kinh tế xã hội tại địa phương. Vì thế, khả năng sử dụng các thông tin này cho công tác thẩm định tín dụng chưa cao và chưa đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa rủi ro. Do đó hệ thống thông tin tín dụng cần được tạo lập có tính hữu ích cao hơn. Đặc biệt, trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, hệ thống thông tin minh bạch và thông suốt sẽ hỗ trợ rất lớn cho ngân hàng trong việc thẩm định rủi ro của khách hàng và sớm phát hiện các dấu hiệu rủi ro.
Dựa trên cơ sở hợp tác, NHNN cần thực hiện kết nối kho thông tin dữ liệu giữa các ngân hàng để bổ sung, tăng tính đầy đủ và sự chính xác của kho dữ liệu, không chỉ là các dữ liệu về khách hàng mà còn các đánh giá và dự báo về ngành, làm nền tảng trong phân tích và thẩm định tín dụng.
Dựa trên thông tin về các doanh nghiệp, ngành hàng, dự án đã cấp tín dụng, Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng TMCP Ngoại Thương cần tổng hợp và đưa ra các đánh giá, phân tích và cung cấp các thông tin hữu ích cho toàn bộ hệ thống để sử dụng trong thẩm định tín dụng. Kho dữ liệu này cần có tính mở để có khả năng tích hợp với
90
kho dữ liệu của các ngân hàng khác nhằm đáp ứng nhu cầu hợp tác trong cạnh tranh được đặt ra trong môi trường hội nhập. Các thông tin cần liên tục được cập nhật. Vietcombank cần thành lập ban quản trị thông tin có nhiệm vụ thường xuyên nâng cấp và tổng hợp thông tin trong hệ thống, giúp những thông tin cần thiết có thể được tiếp cận nhanh nhất bởi cán bộ của ngân hàng trong khắp cả nước.
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương cần thiết lập các mối liên hệ với các tổ chức, dịch vụ cung cấp thông tin trên thế giới để có thể khai thác, mua tin khi cần thiết để đáp ứng yêu cầu thông tin từ các Chi nhánh, đặc biệt là các thông tin về tình hình tài chính, hoạt động của các công ty mẹ - đối tác ở nước ngoài của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Hoạt Động Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Tại Vietcombank
- Đánh Giá Thực Trạng Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Tại Vietcombank
- Hoàn Thiện Các Văn Bản Liên Quan Đến Cấp Tín Dụng
- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Vietcombank thời kỳ khủng hoảng kinh tế - 13
- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Vietcombank thời kỳ khủng hoảng kinh tế - 14
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Trên cơ sở mô hình tổ chức hướng đến khách hàng đã được triển khai, hệ thống thông tin khách hàng cần được tổ chức một cách hợp lý, tránh trùng lặp trong thu thập dữ liệu, đảm bảo có những thông tin toàn diện và đầy đủ theo đúng tính chất và đặc thù khách hàng. Đồng thời với việc thu thập thông tin, cần sử dụng các công cụ phân tích thông tin hiện đại để tăng độ chính xác của các kết quả đánh giá nhằm đưa ra các quyết định đúng đắn. Trong điều kiện các chương trình hỗ trợ thông tin về khách hàng thuộc Chương trình Siverlake (một chương trình hợp tác giữa Ngân hàng TMCP Ngoại Thương và Tập đoàn Siverlake) đang áp dụng còn nhiều hạn chế, Ngân hàng TMCP Ngoại Thương cần thiết lập các phần mềm hỗ trợ cung cấp thông tin về khách hàng (doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ, tình trạng nợ), phân loại nợ tự động để đáp ứng nhu cầu thu thập, xử lý thông tin được nhanh nhạy, chính xác.
Ngân hàng cũng cần cập nhật và bổ sung thường xuyên cẩm nang tín dụng. Cẩm nang này hướng dẫn cho cán bộ những vấn đề cơ bản trong tác nghiệp. Bởi đặc thù của hoạt động tín dụng là dựa vào các quy định của pháp luật, sự phát triển của các sản phẩm tín dụng, do đó nó luôn luôn biến động và cần cập nhật một cách kịp thời. Năm 2003 Ngân hàng TMCP Ngoại Thương đã ban hành cẩm nang tín dụng để nâng cao hiểu biết nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. Từ đó đến nay, mặc dù đã có nhiều thay đổi về quy trình tín dụng, văn bản pháp lý, sự phát triển của các sản phẩm tín dụng mới… nhưng cẩm nang tín dụng vẫn chưa có sự cập nhật và thay đổi, bổ sung kịp thời. Điều này đã làm hạn chế khả năng hệ thống và nắm bắt các vấn đề mới trong nghiệp vụ tín dụng của cán bộ. Do đó cần thực hiện việc rà soát, tái bản có điều chỉnh cẩm nang tín
dụng, có thể 2 năm một lần để cập nhật các văn bản pháp lý, các quy định, quy trình, mẫu biểu mới đáp ứng các yêu cầu về đào tạo và nghiên cứu chuyên môn.
6 Các giải pháp phòng ngừa rủi ro
6.1 Nâng cao chất lượng thẩm định và phân tích tín dụng
Rủi ro tín dụng bắt đầu từ những phân tích và thẩm định tín dụng không cẩn trọng và thiếu chính xác dẫn đến các quyết định cho vay sai lầm. Đây là bước cực kỳ quan trọng và đảm bảo hạn chế rủi ro tín dụng với hiệu quả cao nhất, ít tốn kém nhất. Quá trình thẩm định cần đáp ứng được yêu cầu về chất lượng phân tích và thời gian ra quyết định, đảm bảo sự cẩn trọng hợp lý trên cơ sở cân bằng giữa lợi nhuận và rủi ro cũng như đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng phục vụ khách hàng. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, công tác thẩm định rủi ro tín dụng cần đặc biệt được chú trọng.
Cán bộ tín dụng phân tích và thẩm định chính xác rủi ro tổng thể của khách hàng thông qua xác định giới hạn tín dụng theo các quý (trong thời kỳ kinh tế ổn định, phát triển thì theo định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm). Công việc này sẽ giúp cho ngân hàng có cái nhìn toàn diện về tình hình tài chính, chất lượng kinh doanh và đánh giá triển vọng phát triển của doanh nghiệp để nhận thấy những rủi ro của doanh nghiệp, định ra một giới hạn tín dụng hợp lý, nằm trong giới hạn chịu nợ của khách hàng đối với hệ thống Ngân hàng TMCP Ngoại Thương (không bao gồm giới hạn tín dụng của các TCTD khác bởi không thể kiểm soát được mức cho vay của các TCTD khác). Nỗ lực xác định giới hạn tín dụng hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng luôn ở thế chủ động và có giải pháp kiểm soát rủi ro tín dụng một cách hiệu quả. Để thực hiện tốt yêu cầu này, cần chú trọng đến phân tích định lượng, lượng hóa mức độ rủi ro của khách hàng qua đánh giá các số liệu, đồng thời kết hợp với phân tích định tính (phân tích môi trường vĩ mô, vi mô, môi trường nội bộ của doanh nghiệp, lịch sử quan hệ tín dụng với ngân hàng…) để nhận ra những rủi ro tiềm tàng và khả năng kiểm soát, hạn chế những rủi ro đó của ngân hàng.
Trong phân tích định lượng, ứng dụng và hoàn thiện hệ thống cho điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng. Hệ thống này cần được thường xuyên điều chỉnh cho phù hợp với thực tế và điều kiện kinh tế Việt Nam, không nên cứng nhắc theo những tính
toán của các nước có điều kiện không tương đồng. Thông qua việc sử dụng các mô hình định lượng, mức độ rủi ro sẽ được lượng hóa hợp lý, có khả năng phản ánh một cách chính xác hơn mức độ rủi ro của các khoản vay dự kiến và giúp xây dựng những biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trước khi cấp tín dụng với khách hàng.
Tuy nhiên mỗi khách hàng không chỉ vay tại một ngân hàng mà có thể vay tại nhiều ngân hàng khác nhau và sự đổ vỡ của bất kỳ khoản vay tại ngân hàng nào cũng sẽ gây ra rủi ro và ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Do đó bên cạnh việc định ra giới hạn tín dụng cần các điều kiện tín dụng khác, đặc biệt là điều kiện về tổng dư nợ vay và cơ cấu tài chính của khách hàng, nhằm đảm bảo mức độ an toàn trong kinh doanh.
Trên cơ sở giới hạn tín dụng đã được phê duyệt, trong từng lần cấp tín dụng, cán bộ tín dụng chủ yếu tập trung phân tích rủi ro của chính phương án vay đó để giảm bớt thời gian xử lý các giao dịch. Trong phân tích này, cần tập trung đến tính pháp lý của phương án vay, đến nguồn cung cấp, thị trường và khả năng tiêu thụ… Đồng thời cần đưa ra những rủi ro dự kiến, khả năng kiểm soát của ngân hàng và kịch bản xử lý khi những tình huống xấu xảy ra. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp cần thường xuyên cập nhật thông tin về tình hình kinh doanh tổng thể của khách hàng để nhận biết sớm những rủi ro có thể xảy ra.
Cần phối kết hợp chặt chẽ các điều kiện tín dụng trong hợp đồng tín dụng như lãi suất, tỷ lệ vốn tự có tham gia phương án, các tài sản bảo đảm… để đảm bảo lợi ích thu được phải tương xứng với mức độ rủi ro. Dựa trên mức LSCB do Ngân NHNN ban hành và chi phí vốn của mình, Vietcombank chỉ nên xây dựng mức lãi suất tham khảo và giao cho các Chi nhánh quyền chủ động xác định mức lãi suất phù hợp với từng khách hàng, đồng thời cần xây dựng biểu lãi suất theo thang bậc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp (phần dư nợ vay vượt quá giới hạn tín dụng tham khảo nhưng vẫn trong giới hạn tín dụng được phê duyệt phải áp dụng mức lãi suất cho vay cao hơn). Các khách hàng có mức độ xếp hạng tín dụng càng thấp thì cần nâng tỷ lệ tham gia của vốn tự có, cần lựa chọn những tài sản bảo đảm có tính thanh khoản cao… Các điều kiện pháp lý trong hợp đồng tín dụng càng chặt chẽ càng đảm bảo các quyền lợi của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương khi rủi ro xảy ra, đồng thời nâng cao trách nhiệm của khách hàng trong sử dụng vốn vay, hạn chế rủi ro xảy ra.
6.2 Sử dụng công cụ tài chính phái sinh (credit derivatives)
Một công cụ hiệu quả trong các nghiệp vụ tự phòng vệ rủi ro tín dụng là các phái sinh tín dụng. Phái sinh tín dụng là các công cụ phái sinh được sử dụng để quản lí rủi ro tín dụng, chúng cho phép chuyển rủi ro từ người bán rủi ro (người mua sự bảo vệ tín dụng) đến người mua rủi ro (người bán sự bảo vệ tín dụng). Các phái sinh tín dụng chủ yếu là “total return swap”, “credit default swaps”, các trái phiếu ràng buộc (credit linked notes). Nhờ các công cụ này, các tổ chức tín dụng có thể tự bảo vệ mình khỏi các rủi ro tín dụng, đảm bảo đa dạng hoá các rủi ro này.
6.2.1 Hợp đồng hoán đổi tổng thu nhập (total return swaps – TRS, còn gọi là Total rate of return – TROR)
Hình 3 - 4: Quy trình của một Hợp đồng hoán đổi tổng thu nhập (TRS)
Ngân hàng nên phát triển công cụ này như một phương pháp hữu hiệu để giảm thiểu rủi ro. Ngân hàng (bên bán - Payer of TRS) ký một hợp đồng hoán đổi tổng thu nhập (TRS) với một nhà đầu tư (nhà bảo hiểm, quỹ tự bảo hiểm – bên mua – Receiver of TRS), trong đó cho phép nhà đầu tư quản lý tài sản của ngân hàng trong một thời gian nhất định. Tài sản trong hợp đồng TRS có thể là cổ phiếu, trái phiếu, các khoản tín dụng… mà lợi nhuận thu được từ một bên thứ ba và quyền sở hữu của các tài sản này vẫn thuộc về phía ngân hàng.
Nhà đầu tư và ngân hàng sẽ thỏa thuận trong hợp đồng về giá trị ban đầu của tài sản và các khoản phí định kỳ với lãi suất cố định hoặc thả nổi mà nhà đầu tư phải trả cho ngân hàng. Lãi suất thả nổi có thể là lãi suất LIBOR cộng với một biên độ nhất
định. Nhà đầu tư sẽ được hưởng các dòng tiền thu được từ tài sản đó trong thời gian hiệu lực của hợp đồng và phải chịu mọi rủi ro liên quan đến tài sản trong thời gian đó. Khi hợp đồng hết hạn hiệu lực, hai bên sẽ tiến hành thanh lý hợp đồng. Lúc này, nếu như giá trị của tài sản giảm đi, nhà đầu tư sẽ phải bù đắp phần chênh lệch giữa giá trị thỏa thuận ban đầu và giá trị mới. Nếu giá trị tài sản không thay đổi, nhà đầu tư không phải trả gì cả. Nếu giá trị tài sản tăng lên, nhà đầu tư sẽ được hưởng phần tăng lên đó.
Điều đáng chú ý là nếu trong thời gian hiệu lực của hợp đồng mà tài sản đó gặp rủi ro (ví dụ như một khoản tín dụng bị đổ vỡ) thì hợp đồng sẽ chấm dứt và nhà đầu tư phải trả cho ngân hàng số tiền bằng giá trị của tài sản ban đầu.
6.2.2 Hợp đồng hoán đổi tín dụng (credit default swaps - CDS)
Hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS) là một công cụ tài chính giống như một hợp đồng bảo hiểm tín dụng và phổ biến hơn so với TRS. Ngân hàng ký hợp đồng CDS với một ngân hàng đầu tư hoặc công ty bảo hiểm khác để được bảo hiểm rủi ro cho cổ phiếu, trái phiếu hoặc khoản tín dụng... của mình. Hàng năm, ngân hàng sẽ phải trả cho nhà bảo hiểm một khoản phí. Khoản phí này cao hay thấp phụ thuộc vào xếp hạng (rating) của tài sản, tài sản càng nhiều rủi ro (xếp hạng càng thấp) thì phí càng cao. Nếu xếp hạng của tài sản quá thấp, nhà bảo hiểm sẽ phải ứng trước cho ngân hàng một khoản làm thế chấp (upfront collateral).
Nhà bảo hiểm sẽ phải trả cho ngân hàng dòng tiền bù đắp rủi ro của tài sản (credit default cashflow) bằng chênh lệch giữa giá trị của tài sản (face value) và giá trị còn lại (recovery value). Dòng "credit default cashflow” sẽ bằng không nếu sự mất vốn (default) không xảy ra và bằng giá trị của tài sản (face value) nếu như tài sản gặp rủi ro do bên thứ ba không thanh toán cho ngân hàng.
Thông qua hai nghiệp vụ tài chính phái sinh trên, ngân hàng có thể hoán đổi rủi ro của các khoản tín dụng của mình với một bên thứ hai khác. Ngân hàng sẽ không còn phải lo lắng với các rủi ro xảy đến với các khoản tín dụng này nữa.
6.3 Quản lý, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quá trình giải ngân và sau khi cho vay
Phòng Quản lý nợ thực hiện giải ngân theo đúng các quyết định cấp tín dụng của cấp phê duyệt, đối chiếu giữa mục đích vay, yêu cầu giải ngân và cơ cấu các chi phí
trong nhu cầu vốn của khách hàng, đảm bảo việc sử dụng vốn vay có đầy đủ chứng từ chứng minh và hợp lệ. Hạn chế giải ngân bằng tiền mặt trừ những trường hợp đặc thù do hoạt động kinh doanh của khách hàng như cho vay thu mua nông, lâm, thủy sản của các hộ dân, trả lương công nhân, chỉ áp dụng phương thức thanh toán chuyển khoản để có thể kiểm soát việc sử dụng vốn vay của khách hàng…
Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, việc sử dụng vốn vay của khách hàng tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ rủi ro. Những rủi ro tín dụng xuất hiện sau khi cho vay không chỉ do bản thân phương án kinh doanh kém hiệu quả, khách hàng vay sử dụng vốn sai mục đích mà còn do ngân hàng không kiểm soát được dòng tiền sau khi kết thúc phương án kinh doanh, dẫn đến tình trạng khách hàng sử dụng nguồn tiền này vào các mục đích kém hiệu quả hay không minh bạch. Để phòng ngừa những rủi ro này, cần thực hiện kiểm soát chặt chẽ sau khi cho vay bằng các biện pháp sau:
Phòng Quản lý nợ thực hiện việc kiểm tra sử dụng vốn vay phù hợp với đặc thù của các khoản vay, chất lượng khách hàng. Do mỗi khoản vay, mỗi khách hàng vay có sự khác biệt nhất định mà cần xây dựng và lựa chọn một kế hoạch kiểm tra sử dụng vốn hợp lý, đảm bảo an toàn cho ngân hàng nhưng cũng tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của khách hàng và mối quan hệ giữa các bên. Nên sử dụng xếp hạng tín dụng khách hàng làm cơ sở cho việc xác định định kỳ hàng tháng, hàng quý hoặc nửa năm kiểm tra sử dụng vốn vay, trong đó những khách hàng có xếp hạng tín dụng cao, có uy tín trong quan hệ tín dụng thì thời hạn kiểm tra sử dụng dài hơn, các khách hàng xếp hạng tín dụng càng thấp thì mật độ kiểm tra nhiều hơn. Đối với những khách hàng có nợ xấu, cần kiểm tra và phân loại nợ 1 lần/tháng để theo sát tình hình của khách hàng, có nhận định, phân tích và giải pháp đúng đắn nhằm hạn chế rủi ro.
Trong kiểm tra sử dụng vốn, cần nghiêm túc thực hiện kiểm tra trên thực tế, có đánh giá về việc sử dụng vốn, về tài sản bảo đảm của khách hàng, kịp thời phát hiện những rủi ro và có biện pháp xử lý, tránh tình trạng thực hiện kiểm tra mang tính đối phó, thực hiện trên giấy tờ.
Cần có sự phân tích và đánh giá kịp thời những dấu hiệu của rủi ro như khách hàng có khó khăn trong việc trả nợ, sự thay đổi của môi trường kinh doanh, tình hình thị trường ảnh hưởng xấu đến phương án kinh doanh, có dấu hiệu vi phạm pháp
luật…, dựa trên hệ thống các tín hiệu cảnh báo sớm về rủi ro tín dụng để nắm bắt khả năng xử lý chủ động, kịp thời các rủi ro có nguy cơ xảy ra.
Ngân hàng theo dõi chặt chẽ các nguồn tiền của khách hàng trên cơ sở xây dựng cơ chế tra soát đối với từng loại vay (các khoản vay để xuất khẩu thì kiểm tra ngày xuất hàng, các yêu cầu đòi tiền, bộ chứng từ hàng xuất và thời gian thanh toán; các khoản vay thương mại cần kiểm tra tồn kho, công nợ hàng tháng và kiểm tra việc sử dụng các nguồn thu của khách hàng, quy định nguồn tiền hàng từ phương án vay phải trả nợ ngay sau khi thu được tiền, cho dù khoản vay chưa đến hạn…). Kiểm tra chặt chẽ nguồn tiền từ phương án kinh doanh sẽ giúp ngân hàng kịp thời thu nợ đúng hạn.
6.4 Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra nội bộ
Đồng thời với việc thiết lập cơ chế “giám sát song song” thông qua chức năng của Phòng Quản lý nợ, cần chú trọng công tác “hậu kiểm” của kiểm tra nội bộ để tăng cường khả năng kiểm soát tính tuân thủ trong hoạt động cấp tín dụng, giảm thiểu những rủi ro tín dụng. Trước mắt, khi chưa thực hiện lập Phòng Kiểm tra nội bộ khu vực để đảm bảo đủ thẩm quyền và độc lập trong kiểm tra kiểm soát, nên tạo ra sự không phụ thuộc và độc lập nhất định của Phòng Kiểm tra nội bộ của Chi nhánh bằng cách quy định lương của cán bộ kiểm tra nội bộ sẽ do Hội sở chính trả và nhân sự của Phòng này do Hội sở chính chỉ định, bổ nhiệm và miễn nhiệm. Có như vậy thì Phòng kiểm tra nội bộ mới đủ thẩm quyền để thực thi các nhiệm vụ của mình.
Trong công tác kiểm tra nội bộ, ngoài thực hiện kiểm tra theo định kỳ, cần tập trung và tăng tần suất kiểm tra các khách hàng có nợ xấu, đánh giá việc thực thi các biện pháp quản lý nợ có vấn đề và khả năng thu hồi nợ. Công tác kiểm tra nội bộ cần thực hiện có trọng điểm, theo các ngành nghề, lĩnh vực đang tiềm ẩn nguy cơ rủi ro để kịp thời chấn chỉnh và đề xuất các giải pháp để tăng cường khả năng phòng ngừa rủi ro tín dụng.
7 Các giải pháp hạn chế, bù đắp tổn thất khi xảy ra rủi ro
Tăng cường hiệu quả xử lý nợ có vấn đề
Nợ xấu của Vietcombank trong năm 2008 đã tăng cao, do đó thiết lập cơ chế xử lý nợ có vấn đề là một đòi hỏi cấp thiết. Để giảm thiểu tổn thất khi rủi ro xảy ra, cần có