Xây Dựng Môi Trường Pháp Lý Minh Bạch Và Có Các Chế Tài Chặt Chẽ Để Quản Lý Tạo Điều Kiện Cho Các Doanh Nghiệp Kinh Doanh Hợp Pháp Và Hiệu Quả


vì lợi ích trước mắt mà bỏ quên lợi ích con người. Định hướng của phát triển là phải kết hợp một cách hữu cơ sự phát triển của doanh nghiệp với tiến bộ của loài người nhằm bảo đảm sự phát triển doanh nghiệp một cách liên tục, ổn định, hài hòa.

Năm là, xây dựng tinh thần trách nhiệm xã hội. Một doanh nghiệp không những phải coi sản phẩm của mình là một bộ phận làm nên quá trình phát triển nhân loại mà còn phải coi việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp mình là một bộ phận của văn hóa nhân loại. Doanh nghiệp đóng góp cho xã hội không chỉ ở số lượng của cải mà còn phải thỏa mãn được nhu cầu văn hóa nhiều mặt của xã hội hiện đại như tích cực ủng hộ, tài trợ cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa, xã hội, thúc đẩy khoa học - kỹ thuật phát triển và tiến bộ. Thông qua các hoạt động nhân đạo và văn hóa này hình ảnh doanh nghiệp sẽ trở nên tốt đẹp hơn, uy tín của doanh nghiệp được nâng lên đáng kể. Đó cũng là hướng phát triển lành mạnh, thiết thực để các doanh nghiệp đóng góp ngày càng nhiều hơn vào công cuộc đổi mới, vì mục đích: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” mà Đảng ta đã đề ra và được toàn dân ủng hộ.

II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT

1. Giải pháp từ phía nhà nước

1.1. Xây dựng môi trường pháp lý minh bạch và có các chế tài chặt chẽ để quản lý tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh hợp pháp và hiệu quả

Có thể nói, môi trường pháp lý thuận lợi là điều kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. Qua phần thực trạng ta thấy, hiện tại Việt Nam vẫn tồn tại nhiều yếu tố bất lợi cho sự phát triển như: một số căn bênh tâm lý của người lao động Việt Nam, thói quen “đi cửa sau”, giải quyết mọi công việc bằng quan hệ chứ chưa dựa trên hiệu quả công việc. Đây được coi là hậu quả của một môi trường pháp lý chưa ổn định và hoàn thiện. Các chính sách đưa ra chưa nhất quán, tạo nhiều khe hở cho các hoạt động phạm pháp. Mà như đa phân tích ở trên, đạo đức kinh doanh chịu ảnh hưởng rất lớn từ văn hóa dân tộc, nhà lãnh đạo và những giá trị học hỏi từ bên ngoài. Như vậy, môi trường kinh doanh đóng một vai trò quan trọng trong sự hình


thành đạo đức kinh doanh. Điều tra của Ban Thư ký Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam thực hiện trên 234 doanh nghiệp trong và ngoài nước cũng cho thấy, môi trường kinh doanh trong năm 2008 khả quan hơn năm ngoái. Nhận định này cũng tương đồng với Báo cáo Môi trường kinh doanh 2008 do Ngân hàng Thế giới và Tập đoàn Tài chính Quốc tế phát hành trong đó xếp hạng Mức độ thuận lợi về môi trường kinh doanh ở Việt Nam tăng 3 bậc, lên hạng 91 trong năm nay. Với những kỳ vọng lạc quan trong một vài năm tới, 90% số doanh nghiệp đang đầu tư tại Việt Nam cho biết, đã có kế hoạch mở rộng kinh doanh tại Việt Nam. Các doanh nghiệp được điều tra (cả trong và ngoài nước) đều nhận định triển vọng kinh tế thuận lợi, mở cửa thị trường và cải cách do Việt Nam gia nhập WTO và tăng trưởng của thị trường trong nước là những lý do chính khiến doanh nghiệp mở rộng kinh doanh ở Việt Nam.

Tuy đã có những cải thiện đáng kể như vậy, xong môi trường kinh doanh của chúng ta vẫn còn những hạn chế nhất định. Nhận thức được điều đó, Chính phủ đã có những cam kết để cải thiện mạnh mẽ hơn nữa, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp. Khi đối thoại với các doanh nghiệp, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc cam kết, Chính phủ Việt Nam đã, đang và sẽ nỗ lực cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh nhằm huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Việt Nam đang chuẩn bị các điều kiện thuận lợi nhất cho việc thu hút ở mức cao nhất và sử dụng hiệu quả nhất dòng vốn đầu tư nước ngoài đang tăng mạnh tại Việt Nam, trong đó có việc thực hiện hiệu quả và đúng lộ trình các cam kết song phương và đa phương trong quá trình hội nhập quốc tế; tiếp tục hoàn thiện cơ chế thị trường, cải cách, đơn giản hoá các thủ tục hành chính, hệ thống tài chính, ngân hàng”.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Cùng với vấn đề đào tạo nhân lực, Việt Nam cũng cam kết đẩy mạnh nâng cấp cơ sở hạ tầng, đơn giản hoá vấn đề giấy tờ, thủ tục và giảm bớt các điều kiện về thuê đất đai, mặt bằng kinh doanh. Với những cam kết mạnh mẽ nêu trên của Chính phủ, tin rằng những hạn chế của môi trường kinh doanh Việt Nam sẽ từng bước được cải thiện, trở thành một nơi có môi trường kinh doanh cạnh tranh hơn trong những năm sắp tới.


Một số đặc điểm tâm lý và đạo đức trong kinh doanh ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay - 11

Cùng với việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để các doanh nghiệp có thể hoạt động kinh doanh một cách dễ dàng nhất thì Nhà nước cũng cần đề ra các chế tài nghiêm khắc đối với các doanh nghiệp vi phạm pháp luật. Việc tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cũng là một biện pháp hữu hiệu để các doanh nghiệp ý thức được việc tuân thủ pháp luật, từ đó tạo ra thói quen và dần làm cho các doanh nghiệp thấy rằng đó là điều nên làm. Những suy nghĩ đó sẽ trở thành thói quen và ý thức tự thân của doanh nghiệp. Nhà nước nên hoàn thiện lại các ban thanh tra giám sát, đảm bảo rằng công việc thanh tra giám sát thật hiệu quả, bởi theo phân tích ở trên, người lao động cũng như các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn tâm lý “chạy các cửa” nên hiệu quả của việc thanh tra giám sát chưa thực sự đạt như ý muốn của nhà nước và Chính Phủ. Bởi vậy, muốn thay đổi tâm lý đó ở các doanh nghiệp Việt Nam thì các bộ ngành thanh tra trước hết phải tự làm trong sạch nội bộ từ cán bộ lãnh đạo đến các thanh tra kiểm soát viên. Từ đó mới có thể đem lại tin tưởng cho người dân và doanh nghiệp để dần dần xóa bỏ tâm lý tiêu cực về việc “ chạy các cửa” của các doanh nghiệp và người lao động Việt Nam.

1.2. Cải tiến cơ cấu quản lý nhân sự trong cơ quan và doanh nghiệp Nhà nước

Nguồn nhân lực đóng vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Chế độ tuyển dụng và đãi ngộ ảnh hưởng khá lớn tới chất lượng nhân lực trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều này lại chưa được coi trọng tại hầu hết các doanh nghiệp nhà nước.

Trong chính sách tuyển dụng nhân sự, các doanh nghiệp nhà nước thường sử dụng cơ chế bổ nhiệm cán bộ quản lý, lãnh đạo tuân theo các tiêu chí cơ bản như: phải là Đảng viên, có thâm niên công tác và thuộc diện cán bộ quy hoạch của tổ chức Đảng trong doanh nghiệp đó. Tài năng đôi khi cũng chỉ là điều kiện đủ (không phải là điều kiện cần) theo cơ chế bổ nhiệm nhân sự nêu trên. Hoạt động tuyển dụng nhân sự trong doanh nghiệp nhà nước đôi khi không tuân thủ nguyên tắc “có việc mới cần người”, mà xuất hiện tình trạng “có người rồi mới tạo ra việc”.


Một yếu tố quan trọng khác cũng góp phần dẫn đến tình trạng yếu kém của đội ngũ nhân sự trong các doanh nghiệp nhà nước là chế độ đãi ngộ: cơ chế trả lương và chính sách động viên khen thưởng. Nhược điểm cơ bản và quan trọng nhất của hệ thống thang lương-bảng lương này là cơ chế trả lương không theo năng lực lao động, mà dựa trên bằng cấp, chức danh công việc và thâm niên công tác. Nếu như tại các doanh nghiệp tư nhân, một sinh viên mới ra trường có thể đề nghị mức lương cho mình, và doanh nghiệp chủ động đưa ra một mức lương phù hợp mà cả hai có thể chấp nhận được, thì điều này khó xảy ra ở doanh nghiệp nhà nước, dẫn đến sự cào bằng trong việc trả lương. Tình trạng người có năng lực nhưng mới ra trường luôn có mức lương thấp hơn một người bình thường nhưng có thâm niên làm việc là điều rất dễ thấy tại các doanh nghiệp nhà nước.

Vì vậy, để cải thiện trình độ của nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp nhà nước chúng ta cần bắt buộc các cơ quan Nhà nước tổ chức thi tuyển nhân sự công khai, trong Hội đồng tuyển người cần mời những người có chuyên môn bên ngoài tham dự, để tránh tình trạng thi tuyển hình thức.

Nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống pháp luật. Cụ thể cần tiếp tục sửa đổi, điều chỉnh, hoàn thiện thể chế pháp luật lao động, sớm ban hành Luật Cán bộ, công chức để làm căn cứ xác định nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm, xác định các tiêu chí đào tạo, tuyển dụng, đánh giá, khen thưởng, xử phạt, các điều kiện thực thi công vụ của cán bộ, công chức cũng như làm căn cứ định hướng xây dựng các tiêu chí văn hoá, văn minh, dân chủ gắn với kỷ cương, kỷ luật nơi cơ quan, công sở. Tôn trọng vai trò cá nhân cũng như đặt đúng trách nhiệm cá nhân là một nhân tố quan trọng lành mạnh hóa bộ máy hành chính doanh nghiệp hiện nay.

Giải quyết tốt chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp cho cán bộ, công chức và người lao động, đó chính là cái gốc của vấn đề, là điều kiện tiên quyết để nâng cao tính tích cực lao động của cán bộ, công chức và người lao động. Trách nhiệm và quyền lợi là không thể tách rời, coi trọng hoặc xem nhẹ mặt nào cũng sẽ dẫn đến những sai lầm.


Chưa thể nói tới việc đòi hỏi một cán bộ, công chức và người lao động hết lòng vì công việc, tận tâm tận lực vớicông việc doanh nghiệp, một khi Nhà nước chưa quan tâm giải quyết thỏa đáng các chế độ chính sách cho họ ở mức đủ để sống. Có như vậy mới nâng cao được chất lượng đội ngũ nhân sự các cấp trong cơ quan, cải thiện được chất lượng ĐĐKD. Đây cũng chính là bước khởi điểm tạo nên môi trường kinh doanh trong sạch, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển.

1.3. Nâng cao nhận thức về đạo đức kinh doanh trong các doanh nghiệp

Khái niệm ĐĐKD đã trở nên quen thuộc trên thế giới từ những năm 80 của thế kỷ trước, nhưng nó mới chỉ du nhập vào Việt Nam vào khoảng giữa thập kỷ 90. Đối với rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam, khái niệm ĐĐKD vẫn còn rất mới mẻ. Theo kết quả điều tra 20 doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực như sản xuất, kinh doanh, thương mại dịch vụ trên địa bàn Hà Nội của tác giả thực hiện đề tài vào tháng 3/2009 cho thấy, nhận thức về tầm quan trọng của ĐĐKD đã được cải thiện khá nhiều. Đa số các công ty đều công nhận ĐĐKD rất quan trọng đến sự phát triển của một công ty. Trong đó, 70% số người được hỏi cho rằng ĐĐKD rất quan trọng, 15% cho biết ĐĐKD cũng quan trọng. Tuy vậy vẫn có 10% cho rằng ĐĐKD không quan trọng đối với một doanh nghiệp. Mặc dù đã nhận thức được tầm quan trọng của ĐĐKD nhưng nhận thức đúng đắn về khái niệm ĐĐKD vẫn chưa được cải thiện nhiều. Theo điều tra của nhóm nghiên cứu trường Đại học Ngoại Thương vào năm 2000 thì có đến 58,6% số doanh nghiệp được hỏi đồng nhất khái niệm VHDN và ĐĐKD. Thậm chí còn có người cho rằng không tồn tại đạo đức kinh doanh trên thực tế, vì đã "kinh doanh là phải gian trá". Theo kết quả điều tra của tác giả thì tình hình đã tiến bộ nhiều xong vẫn có khá nhiều trường hợp vẫn nhầm lẫn giữa các khái niệm. Theo đó, có đến 40% trong số người được phỏng vấn cho rằng VHDN chính là ĐĐKD.

Theo những phân tích đã đưa ra, hiện nay việc nhận thức một cách đúng đắn về khái niệm cũng như vai trò của ĐĐKD đối với sự phát triển của một doanh nghiệp vẫn chưa thực sự đúng đắn và được quan tâm nhiều bởi chính bản thân các doanh nghiệp. Việc nhận thức sai lệch, không đầy đủ về ĐĐKD dẫn đến việc các doanh nghiệp chưa


biết vận dụng hai điều này để tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp mình. Vì vậy, Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền về vai trò của ĐĐKD. Trong việc này, các phương tiện thông tin đại chúng đóng một vai trò quan trọng. Sự xuất hiện thường xuyên của các bài báo, các công trình nghiên cứu với cách nhìn sâu sắc và thấu đáo hơn về vấn đề ĐĐKD sẽ giúp nâng cao trình độ nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về vấn đề này.

Một điều đặc biệt quan trọng đó là khơi dậy tinh thần kinh doanh trong nhân dân, khuyến khích mọi người, mọi thành phần kinh tế cùng hăng hái tìm cách làm giầu cho mình và cho đất nước. Xoá bỏ quan niệm cho kinh doanh là xấu, coi thường thương mại, chỉ coi trọng quan chức, không coi trọng thậm chí đố kỵ doanh nhân. Xoá bỏ tâm lý ỉ lại, dựa vào bao cấp của Nhà nước, đề cao những nhân tố mới trong kinh doanh, những ý tưởng sáng tạo, sáng kiến tăng năng xuất lao động, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Tôn vinh những doanh nhân năng động, sáng tạo, kinh doanh đạt hiệu quả cao, có ý chí vươn lên, làm rạng rỡ thương hiệu Việt Nam trên thị trường thế giới.

Trong thực tế, trải qua những năm đổi mới, bằng thể nghiệm của bản thân cũng như của mỗi gia đình, ngày nay, nhân dân ta đã thấy rõ việc chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang thể chế kinh tế thị trường là tất yếu; thái độ của dân chúng đối với kinh tế thị trường là thái độ thiện cảm. Vấn đề còn lại là các cơ quan Nhà nước phải tiếp tục thay đổi tư duy quản lý, đề xuất những chủ trương, chính sách quản lý đủ mạnh để khuyến khích hơn nữa tinh thần kinh doanh trong các thành phần kinh tế, tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lý xã hội cho sự phát triển kinh tế tư nhân, xoá bỏ sự phân biệt đối xử đối với kinh tế tư nhân kể cả trong tư duy cũng như trong các chủ trương, chính sách cụ thể.

Không chỉ các phương tiện thông tin đại chúng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp mà các chính sách và đường hướng phát triển của Nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng không kém trong công cuộc này. Hiện nay, nghị quyết TW5 về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm


đà bản sắc dân tộc” đang dần đi vào cuộc sống, trong khi đó văn hóa của một doanh nghiệp thực chất có thể coi là nền văn hóa xã hội thu nhỏ, vì vậy chú trọng VHDN cũng chính là chú trọng xây dựng và củng cố văn hóa xã hội. Khi nhận thức của toàn xã hội được tăng lên thì ý thức về văn hóa và đạo đức cũng theo đó được nâng cao. Như vậy, những biện pháp khuyến khích của Nhà nước sẽ là một lực đẩy rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam.

Truyền đạt kiến thức về văn hoá doanh nghiệp và đạo đức kinh doanh trong các trường kinh tế. Đây cũng có thể coi là một biện pháp hữu hiệu để tuyên truyền kiến thức về ĐĐKD đến với tầng lớp những nhà lãnh đạo doanh nghiệp trẻ trong tương lai. Hiện nay, troang các trường đại học dạy kinh doanh nói chung và trường đại học Ngoại Thương nói riêng, sinh viên chủ yếu được học về nghiệp vụ, kỹ thuật kinh doanh là chủ yếu chứ ít khi được dậy về cách ứng xử trong hoạt động kinh doanh, và càng hiếm được dạy về cách ứng xử có đạo đức và văn hoá doanh nghiệp. Do vậy, việc giảng dạy ĐĐKD, đạo đức nghề nghiệp là thực sự cần thiết. Việc giảng dạy ĐĐKD sẽ giúp cho những doanh nhân tương lai thấy đựợc những hoàn cảnh đạo đức mà anh ta rơi vào và những giải pháp tối ưu anh ta cần thực hiện trong những trường hợp như vậy. Đồng thời có những kiến thức cần thiết để tạo dựng bầu không khí văn hoá trong doanh nghiệp mình. Việc giảng dạy như vậy sẽ giúp những doanh nhân tương lai thấy được vai trò của đạo đức trong kinh doanh, thấy được những cách thức kinh doanh hợp đạo lý, thấy được trách nhiệm với xã hội, thấy được lợi ích trong dài hạn đối chọi với lợi ích trong ngắn hạn. Giảng dạy văn hoá, đạo đức kinh doanh sẽ tạo ra một đội ngũ doanh nhân chân chính, là cơ sở để phát huy nhân tố con người, yếu tố góp phần tạo bầu không khí ĐĐKD, và là nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước.

1.4. Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ doanh nhân trẻ và đội ngũ lãnh đạo

Thế hệ doanh nhân trẻ sẽ là lớp người kế cận chủ chốt để xây dựng đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp trong tương lai. Bởi vậy, nhà nước ta nên chú trọng đầu tư vào công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ này không chỉ về mặt chuyên môn mà còn cả về các kĩ năng mềm như kĩ năng quản lý, kĩ năng giao tiếp trong kinh doanh. Hiện nay, đã có


khá nhiều các trung tâm và các lớp học ngắn hạn dạy về kĩ năng lãnh đạo, tuy nhiên thực trạng cho thấy các lớp học này chưa thực sự mang lại hiệu quả như mong muốn, đặc biệt là những lớp học ở các tỉnh và huyện nhỏ khi mà doanh nhân chưa thực sự hiểu được tầm quan trọng của việc nâng cao kĩ năng và trình độ quản lý của mình để phù hợp với xu hướng kinh doanh hiện đại ngày nay. Tác giả, qua một số điều tra nghiên cứu, thiết nghĩ bên cạnh những khóa đào tạo ngắn hạn cho doanh nhân, nhà nước nên thường xuyên chỉ đạo các cấp các ngành tổ chức những khóa đào tạo thường xuyên, dài hạn và bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nên đề ra một số mục tiêu và quyết tâm đạt được mục tiêu đó cho các khóa đào tạo này, bởi như tác giả điều tra cho thấy, việc một số cấp ngành địa phương mở ra các lớp đào tạo ngắn hạn này đã coi như hoàn thành nhiệm vụ mà không cần quan tâm kết quả đạt được như thế nào, hay cụ thể hơn là người học đã thực sự thu được những gì và có nâng cao được trình độ hay chưa. Như vậy, thực sự là một sự lãng phí nguồn lực mà lại chưa đem lại được kết quả gì lớn. Theo người nghiên cứu, nên thường xuyên tổ chức các cuộc thi chuyên môn cũng như năng lực quản lý cho những doanh nhân cững như những người lãnh đạo các doanh nghiệp để một mặt khuyến khích họ không ngừng học hỏi rèn luyện bản thân, mặt khác mang lại hiệu quả xã hội thực sự cho công tác đào tạo đội ngũ lãnh đạo kế cận doanh nghiệp sau này.

1.5. Xây dựng các trung tâm tư vấn và hỗ trợ quản lý doanh nghiệp

Trong một doanh nghiệp, kiến thức và nhận thức của nhà quản lý đóng vai trò quan trọng đối với sự nhận thức của chính nhân viên của doanh nghiệp đó. Muốn nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về một vấn đề nào đó thì việc nâng cao nhận thức cho chính nhà quản lý, lãnh đạo là điều rất cần thiết. Chính vì vậy, việc ra đời các trung tâm tư vấn, nhà tư vấn là điều hết sức cần thiết. Hiện tại, chúng ta đã có các trung tâm tư vấn về kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ, pháp luật nhưng các trung tâm tư vấn quản lý còn chưa phổ biến, đặc biệt là trong tư vấn chưa đề cập đến tâm lý và đạo đức kinh doanh. Hơn nữa, hiện nay hoạt động tư vấn tại Việt Nam đang phát triển một cách tự phát, không có định hướng, người hành nghề cũng ít được đào tạo bài bản, công tác

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/05/2022