Số Khách Du Lịch Tới Võ Nhai Giai Đoạn Từ 2015-2019 (Đvt: Lượt)

Từ kết quả trên thấy rằng với nhiều DLTC và DTLS kết hợp với địa hình núi đá vôi hiểm trở và hệ thống sông suối chảy quanh các hang động đã tạo nên sức hút đối với khách du lịch có nhu cầu du lịch thiên nhiên, tham quan làng bản và du lịch thám hiểm, mạo hiểm, tham quan hang động, thác nước, leo núi với tỷ lệ lựa chọn lần lượt là 30 % và 27% đối với khách nội địa và 30 % và 40 % đối với khách quốc tế.

3.3.2. Lượng khách du lịch

Du lịch huyện Võ Nhai hiện tại chưa được tập trung phát triên mạnh mẽ. tuy nhiên Những năm gần đây, huyện Võ Nhai đã tranh thủ các nguồn lực của Trung ương, của huyện để bảo tồn, phát huy các giá trị các DTLS, danh lam thắng cảnh ở địa phương. Trong giai đoạn 2016-2018, huyện đầu tư trên 1,3 tỷ đồng để tôn tạo, sửa chữa, làm biển chỉ dẫn vào các điểm DTLS, danh lam thắng cảnh... Đặc biệt, huyện đã thu hút được Công ty TNHH Một thành viên Hanh Hạnh đầu tư 40 tỷ đồng thực hiện Dự án Điểm du lịch sinh thái Phượng Hoàng. Điểm du lịch này đã chính thức đi vào hoạt động vào đầu tháng 6 nhưng vẫn trong quá trình tiếp tục xây dựng nên chưa đồng bộ (thiếu Nhà ăn, Khu vui chơi trẻ em, nơi lưu trú), sản phẩm du lịch còn quá đơn điệu, các mặt hàng lưu niệm ít và chưa mang tính đặc trưng vùng miền. Cho nên, so với nhiều điểm du lịch khác trong huyện, nơi đây cũng chưa thực sự có sức cuốn hút lớn. Bảng 3.8 thể hiện số lượt khách du lịch đến Võ Nhai giai đoạn từ 2015-2019, các năm đều tăng cả về số lượt khách quốc tế và khác nội địa. Số lượt khách tới Võ Nhai chủ yếu tập trung tại điểm Hang Phượng Hoàng- Suối Mỏ Gà. Năm 2017 huyện Võ Nhai tiến hành xây dựng lại khu du lịch Hàng Phượng Hoàng nên số lượng khách du lịch giảm rõ rệt. Qua bảng 3.8 ta thấy rằng tiềm năng du lịch đặc biệt là du lịch sinh thái của Võ Nhai rất đa dạng và chưa thu hút được khách du lịch tới khám phá.

Bảng 3.10. Số khách du lịch tới Võ Nhai giai đoạn từ 2015-2019 (đvt: lượt)


Năm


Chỉ tiêu


2015


2016


2017


2018


2019

Khách quốc tế

0

0

0

60

100

Khách nội địa

13.600

11.800

6000

8256

13.000

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.

Luận văn Thạc sĩ Quản lý Tài nguyên và Môi trường: Nghiên cứu tiềm năng và thực trạng tài nguyên phục vụ phát triển du lịch sinh thái huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên - 10

(Nguồn báo cáo kinh tế xã hội của huyện Võ Nhai qua các năm)

3.3.3. Doanh thu từ du lịch

Với số lượng du khách tăng lên qua các năm đã chứng tỏ ngành du lịch Võ Nhai đang ngày càng được thay đổi và phát triển, góp phần làm cho doanh thu ngành du lịch tăng lên. Vào ngày thường của mùa hè, nơi đây mới có 300-400 du khách,

ngày nghỉ thì thu hút được 700-800 du khách/ngày. Từ năm 2018 trở về trước, trên địa bàn huyện chỉ có duy nhất điểm du lịch hang Phượng Hoàng - suối Mỏ Gà đem lại doanh thu nhưng rất ít, chỉ với mức trung bình 50 triệu đồng/năm (Nguồn báo cáo kinh tế xã hội của huyện Võ Nhai qua các năm). Một số địa điểm khác như: Thác 7 tầng, thác Mưa Rơi, Mái đá Ngườm ở xã Thần Sa cũng chỉ thu hút được một lượng nhỏ (khoảng trên 100 người/ngày) đến tham quan, nghỉ ngơi và tắm mát vào mùa hè. Còn các nơi khác thì hầu như không có. Do những nơi này chưa được quản lý, cập nhật, khai thác nên chưa phát sinh doanh thu, chưa đem lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

3.3.4. Nguồn thông tin du lịch

Một trong những tiêu chuẩn để phân biệt du lịch sinh thái với các loại hình du lịch khác là đề cao vai trò giáo dục và thuyết minh môi trường. Tiêu chuẩn được thể hiện thông qua việc cung cấp những thông tin đầy đủ cho du khách, bảo đảm đuợc tính thực tế trước khi đến tham quan với hướng dẫn đầy đủ hiểu biết của đội ngũ hướng dẫn viên.

Để có thể biết được những thông tin liên quan đến việc chọn cho mình một địa điểm du lịch lý tưởng thì du khách thường tìm hiểu rất nhiều thông tin về điểm du lịch và thông tin đó có thể qua rất nhiều nguồn khác nhau. Đây cũng là điều mà du khách đặc biệt quan tâm khi đi du lịch. Do vậy, ta thấy rằng nguồn cung cấp thông tin cũng rất quan trọng, nó tạo cho du khách những cảm hứng, những mong muốn trong việc lựa chọn cho mình một điểm du lịch thật ưng ý. Tác giả thực hiển thêm khảo sát tại bảng 3.9.

Bảng 3.11. Nguồn thông tin khách biết về Võ Nhai



Nguồn thông tin

Khách trong nước

Khách quốc tế

Số người

tham gia

%

Số người

tham gia

%

Gia đình, bạn bè giới thiệu

60

67%

1

10%

Công ty, đại lý du lịch

33

37%

5

50%

Sách, Báo chí, ấn phẩm quảng cáo

7

8%

0

0%

Website du lịch

29

32%

2

20%

Ti vi/ Radio

10

11%

0

0%

Mạng xã hội

50

56%

7

70%

Tổng

60

67%

1

10%

(Nguồn: Phiếu điều tra thực địa 2019)


Qua bảng số liệu trên từ việc lấy phiếu điều tra 100 mẫu du khách, thì hầu như du khách biết đến du lịch Võ Nhai qua nguồn thông tin từ bạn bè, người thân có 60

(lựa chọn) của du khách nội địa và 1 (lựa chọn) của khách quốc tế, nguồn thông tin từ mạng xã hội đã ngày càng được giới trẻ sử dụng do đó thông tin từ đây cũng rất được khách du lịch quan tâm với 50 lựa chọn cho khách nội địa và 7 lựa chọn cho khách quốc tế. Ngoài ra các nguồn thông tin từ công ty du lịch chiếm 37% và website chuyên về du lịch chiếm tới 32% trong tổng số đó. Nguồn thông tin qua việc xem quảng cáo, tiếp thị trên báo, đài, cũng có nhưng rất ít chỉ chiếm tới 8% và 11% trong tổng số. Qua đó ta thấy nguồn thông tin từ gia đình, bạn bè giới thiệu và mạng xã hội là chủ yếu. Đây cũng chính là hai nguồn thông tin được du khách quan tâm khi tìm hiểu về điểm du lịch Võ Nhai. Các nguồn thông tin từ cẩm nang du lịch, công ty du lịch hay đại lý du lịch chưa thực sự tạo được sức hút đối với du khách. Đây cũng là vấn đề đặt ra đối với các nhà quản lý khi muốn tuyên truyền, quảng bá về du lịch cần áp dụng đúng kênh thông tin truyền sao cho phù hợp và hiệu quả nhất.

Như vậy, phần lớn khách du lịch đến với Võ Nhai đã được trang bị những thông tin cần thiết về giá trị tự nhiên, giá trị văn hóa của địa phương cũng như những chuẩn bị cần thiết cho một tour du lịch. Qua điều tra cho thấy du khách rất mong muốn tìm hiểu, biết chi tiết về phong tục truyền thống, văn hóa ca múa hát dân gian, hệ thống canh tác, hệ động thực vật nhưng ít nhận được thông tin này từ những người hướng dẫn viên của công ty tour hay từ những đơn vị có chức năng công bố. Du khách thường tự tìm hiểu trực tiếp thông qua trò chuyện với người dân đặc biệt là bà con dân tộc bản địa, tuy nhiên sự đáp ứng nhu cầu thông tin của người dân bản địa không được đào tạo một cách bài bản thì cũng không đáp ứng đủ nhu cầu của khách du lịch, từ đó sẽ ảnh hưởng một phần tới nguồn thu trong du lịch của người dân và sự hứng thú của du khách. Công tác đào tạo các hướng dẫn viên có trình độ, đáp ứng yêu cầu của khách và yêu cầu của hoạt động du lịch sinh thái cần được ưu tiên hàng đầu, đặc biệt đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên người dân tộc thiểu số, có hiểu biết sâu sắc về bản địa để có thể hướng dẫn cũng như quảng bá cho khách du lịch về đặc sắc văn hóa và cảnh đẹp của Võ Nhai. Chính quyền địa phương cần cung cấp đầy đủ thông tin về thiên nhiên và có biện pháp phát triển tiềm năng du lịch sinh thái.

3.3.5. Số lần quay lại du lịch và thời gian lưu lại Võ Nhai

Để tìm hiểm số lần du khách đã quay trở lại du lịch Võ Nhai chúng tôi tiến hành điều tra theo bảng 3.10.

Bảng 3.12. Số lần khách du lịch đến Võ Nhai



Số lần

Khách trong nước

Khách quốc tế

Số người tham

gia

%

Số người

tham gia

%

1 lần

56

62%

8

80%

2 lần

24

27%

2

20%

3 lần

8

9 %

0

0%

4 lần

2

2%

0

0%

5 lần

0

0%

0

0%

(Nguồn: Phiếu điều tra thực địa 2019)

Với số liệu trên thì đa phần du khách đến với Võ Nhai lần đầu rất cao (56/90 khách nội địa và 8/10 khách quốc được hỏi) chiếm 62 % đối với khách nội địa và 80 % đối với khách quốc tế, lần thứ hai thì có 24/90 khách nội địa và 2/10 khách quốc tế. Khách quay lại du lịch Võ Nhai trong những lần thứ 3 và 4 rất ít và lần thứ 5 thì không có. Tuy số lượng du khách đến lần thứ hai trở lên không cao nhưng đây cũng là kết quả đáng mừng cho sự phát triển của hoạt động du lịch Võ Nhai, khi mà du khách đã có sự quay trở lại sau lần du lịch đầu tiên. Theo khảo sát này đa số khách du lịch tới đây đều là du khách du lịch tự phát và ở các địa điểm gần với Võ Nhai, đến du lịch với hình thức tự phát và nhỏ lẻ, cá nhân. Ngoài việc thu hút du khách đến với Võ Nhai lần đầu thì việc còn quan trọng hơn là phải tạo ra được những cảm nhận tốt từ du khách để có thể giữ chân được du khách trong các chuyến du lịch tiếp theo. Cùng với đó là sự đáp ứng được các nhu cầu nghỉ dưỡng kết hợp với nghỉ ngơi nơi đây. Nếu đáp ứng được các yêu cầu của khách du lịch Võ Nhai hứa hẹn sẽ đón được lượng khách du lịch quay lại rất cao.

Việc đi du lịch của du khách có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế của điểm du lịch, đặc biệt là khi chi tiêu của du khách càng nhiều thì doanh thu của kinh doanh du lịch sẽ có ảnh hưởng rất lớn tốc độ phát triển kinh tế của điểm đến. Do vậy mà trong lĩnh vực du lịch, các nhà quản lý du lịch luôn muốn tìm mọi cách để kéo dài thời gian lưu trú của du khách. Cho nên, ta cần phải nghiên cứu về thời gian du lịch của du khách khi đến với Võ Nhai. Nếu thời gian lưu trú của du khách càng dài thì hoạt động du lịch đã tạo ra được sức thu hút đối với du khách và góp phần vào việc phát triển kinh tế du lịch ở Võ Nhai nói chung. Về thời gian lưu lại ở Võ Nhai thì hầu hết khách du lịch tới Võ Nhai chỉ trong 1 ngày rồi phải dời đi. Bởi vì tại các địa điểm du lịch ở đây chưa có các dịch vụ nghỉ dưỡng như số lượng nhà nghỉ, khách sạn rất ít, dịch vụ ăn uống cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của khách du lịch.

3.3.6. Mức độ hài lòng của khách du lịch

Để tiến hành đo mức độ hài lòng của du khách tới Võ Nhai, tác giả tiến hành điều tra thực địa như bảng 3.11. Với số phiếu để khảo sát là 100 phiếu tác giả thu về được 90/90 phiếu với khách nội địa và 10/10 phiếu với khách quốc tế và tỉ lệ khách du lịch tham gia trả lời ứng với mức độ khác nhau thể hiện tại bảng 3.11.

Qua đó ta thấy rằng mức độ hài lòng chiếm số lượng lớn nhất chiếm 47 % . Tiếp theo là rất hài lòng chiếm số lượng với 37/90 phiếu chiếm 41%. Điều này trùng khớp với đánh giá tài nguyên du lịch theo phương pháp đánh giá ở phần trên. Võ Nhai có tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng, tuy nhiên các tài nguyên này vẫn còn hoang sơ, mang đặc điểm tự tạo của tự nhiên chưa có sự thay đổi của con người theo hướng phát triển du lịch sinh thái. Các du khách tới đây lần đầu tiên bất ngờ với vẻ đẹp hoang sơ của tự nhiên, nhưng nếu không có sự đầu tư, khai thác hợp lý thì sẽ khó mang đến sự hài lòng cho khách du lịch quay trở lại Võ Nhai trong những lần tiếp theo.

Bảng 3.13. Đo mức độ hài lòng của khách du lịch



Mức độ

Khách trong nước

Khách quốc tế

Số người

tham gia

%

Số người

tham gia

%

Rất hài lòng

37

41%

3

30%

Hài lòng

42

47%

5

50%

Bình thường

8

9%

2

20%

Kém hài lòng

3

3%

0

0%

Không hhài lòng

0

0%

0

0%

(Nguồn: Phiếu điều tra thực địa 2019)

3.3.7. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất phục vụ phát triển du lịch

a. Cơ sở hạ tầng tại các điểm du lịch:

Võ Nhai là một huyện miền núi, kinh tế còn chậm phát triển còn rất nhiều khó khăn: hệ thống hạ tầng yếu kém nhất là giao thông, điện, nước, các dịch vụ thương mại… còn rất hạn chế.

Tuy nhiên trong thời gian qua du lịch đã được sự quan tâm chú trọng của huyện và chính quyền địa phương các cấp, cơ sở hạ tầng cũng dần được cải thiện, đầu tư, tôn tạo như một số con đường chính và những con đường dẫn tới các điểm lễ hội thăm quan. Các kế hoạch đầu tư xây dựng mới khách sạn, nhà nghỉ, … Cũng dần đi vào thực hiện. Tuy nhiên dịch vụ này vẫn chưa được phát triển để đáp ứng được nhu cầu

nghỉ ngơi của du khách khi đến võ nhai. Số lượng nhà nghỉ đạt tiêu chuẩn chưa có, mới chỉ có nhà nghỉ theo dạng tự phát của dân cư nơi đây.

Với mục tiêu nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị không gian văn hóa gắn với phát triển du lịch cộng đồng tại xóm Mỏ Gà, xã Phú Thượng; giữ gìn các giá trị truyền thống của dân tộc Tày gắn với xây dựng gia đình văn hóa, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc;

Do đó Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thái Nguyên vừa tổ chức khởi công xây dựng công trình bảo tồn bản truyền thống dân tộc Tày xóm Mỏ Gà, xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai. Công trình này nhằm giữ gìn và phát huy giá trị không gian văn hóa truyền thống của dân tộc Tày gắn với phát triển du lịch cộng đồng để cải thiện đời sống nhân dân. Dự án có tổng mức đầu tư hơn 8,6 tỷ đồng dành cho việc bảo tồn không gian văn hóa và xây dựng nhà văn hóa hai tầng, mỗi tầng rộng khoảng 185 m2 theo kiến trúc nhà sàn truyền thống của dân tộc Tày; tôn tạo, tu bổ đình Mỏ Gà và nhà ở truyền thống dân tộc Tày của bốn gia đình ở xóm Mỏ Gà; phục dựng ba cọn nước và một số công trình phụ trợ khác. Công trình sẽ hoàn thành vào năm 2021 chia làm 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Năm 2019 – 2020 gồm tu bổ, tôn tạo kiến trúc truyền thống 04 nhà ở truyền thống dân tộc Tày kết hợp phát triển du lịch; phục dựng 03 cọn nước; xây dựng nhà văn hóa; tu bổ, tôn tạo Đình Mỏ Gà; xây dựng nhà vệ sinh; hạ tầng kỹ thuật: San nền, hệ thống thoát nước mặt, sân, đường, kè đá, cổng hàng rào.

Giai đoạn 2, từ năm 2020 đến năm 2021 gồm Bảo tồn văn hóa phi vật thểnhư các lễ hội, trang phục, ẩm thực, trò chơi dân gian truyền thống; đào tạo du lịch cộng đồng; thực hành homestay và thông tin xúc tiến quảng bá du lịch gắn với du lịch di tích lịch sử và danh thắng hang Phượng Hoàng - suối Mỏ Gà.và hứa hẹn sẽ là một điểm du lịch nổi tiếng thu hút được đông đảo khách du lịch.

Ngoài ra các điểm du lịch khác cũng đang được thực hiện đầu tư và có thể đi vào hoạt động trong tương lai. Qua đó ta thấy có sự đồng bộ giữa TNDL và CSHT, CSVCKT để phục vụ cho việc phát triển du lịch sinh thái tại Võ Nhai.

b. Giao thông đường bộ

Trong những năm gần đây, Võ Nhai đã và đang được đầu tư rất lớn cho việc xây dựng hệ thống giao thông vận tải. Hệ thống giao thông liên thôn, liên bản đã phát triển khá tốt. Vì thế, giao thông đi lại các điểm, cụm du lịch khá thuận lợi. Đơn cử như các tuyến đường: Cúc Đường - Thượng Nung - Sảng Mộc. Nhiều gói thầu thuộc các dự án: Đường từ UBND xã Dân Tiến đi xóm Làng Mười; đường Tràng Xá - Phương Giao nối với huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn); đường Na Rang - Khe Rạc - Cao Sơn (xã Vũ

Chấn) đi xóm Cao Biền (xã Phú Thượng)... cũng đã được hoàn thành, bàn giao và đưa vào sử dụng. Từ năm 2018 trở lại đây, Dự án mở rộng, đổ bê tông tuyến đường đã được hoàn thành, đưa vào sử dụng. Nhờ đó, việc đi lại, vận chuyển hàng hóa của bà con được thuận lợi hơn rất nhiều.

c. Hệ thống cung cấp điện và bưu chính viễn thông

Hệ thống điện chưa đáp ứng đủ và ổn định cho sản xuất và cuộc sống của nhân dân trong huyện. Một số địa danh hệ thống điện chưa được duy trì ổn định. Các trạm biến áp chưa được lắp đặt để phục vụ nhu cầu thăm quan du lịch.

Với mạng lưới bưu chính viễn thông, thời gian gần đây mạng lưới bưu chính viễn thông của Võ Nhai đã được quan tâm phát triển, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh của huyện theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Với số lượng máy điện thoại trên 100% số xã có điện thoại. Hiện nay hệ thống bưu chính viễn thông đã được đâu tư nhiều như nâng cấp thông tin liên lạc đến các huyện, phát triển dịch vụ internet, lắp đặt thêm BTS, mở rộng vừng phủ sóng cho điện thoại, xây dựng đường cáp quang…Đây là những điều kiện tốt để đáp ứng và thúc đẩy du lịch Võ Nhai phát triển.

3.3.8. Nguồn nhân lực

Theo kết quả điều tra hiện nay nguồn nhân lực lao động trực tiếp trong nghành du lịch có khoảng 200 người. Trình độ được đào tạo ở đây còn thấp, số người học đại học và trên đại học còn thấp 4,5% số người học cao đẳng và trung cấp chiếm 8,5%. Ngoài ra còn một số lao động chuyển từ nghành khác sang làm du lịch. Các nhà kinh doanh nhà nghỉ và nhà hàng tư nhân với đội ngũ nhân viên chủ yếu là các thành viên trong gia đình hầu hết chưa đào tạo về du lịch một số nữa học sinh mới học qua phổ thông cũng phục vụ trong các nhà nghỉ tư nhân, mới chỉ qua lớp sơ cấp về du lịch. Chính những hạn chế về quản lý, nghiệp vụ của đội ngũ lao động du lịch ở Võ Nhai đã hạn chế hiệu quả kinh tế. Thời gian gần đây, một số công nhân viên của Công Ty TNHH một thành viên Hanh Hạnh đã đầu tư vào Hang Phượng Hoàng cùng với đó có một lượng lớn công nhân viên ở đây được qua đào tạo về nghiệp vụ du lịch. Hướng dẫn viên của huyện chưa qua đào tạo về nghiệp vụ, ngoại ngữ. Chỉ có một số biết tiếng Anh, riêng tiếng Trung rất ít. Về trình độ ngoại ngữ có cả A, B, C chủ yếu là trình đồ A, B

Nhìn chung nguồn nhân lực cho du lịch của Võ Nhai trong thời gian qua chưa đáp ứng được cho yêu cầu hiện tại. Vì vậy vấn đề đào tạo nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ và ngoại ngữ cho nguồn nhân lực du lịch, đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch Võ Nhai đang là một trong những vấn đề cấp bách.

Bảng 3.14. Lao động trong ngành du lịch


Năm

Đại học và trên ĐH

Cao đẳng và trung

học

Lao động khác

2015

3

7

50

2016

7

10

70

2017

10

15

90

2018

20

30

195

2019

25

50

200

Nguồn: Phòng Văn hóa huyện Võ Nhai 2019

3.3.9. Thực trạng về tổ chức quản lý các hoạt động kinh doanh du lịch

Phòng Văn Hóa Võ Nhai tuy đã đạt được một số thành tựa, bên cạnh những ưu điểm trong việc quản lý du lịch ở Võ Nhai còn nhiều nhược điểm và hạn chế sau:

• Phòng chưa có công cụ kiểm tra, giám sát các hoạt động du lịch, đào tạo nguồn lực chưa được tiến hành thường xuyên, công tác thống kê chưa làm tốt gây khó khăn cho việc thu thập số liệu, tư liệu, khó khăn cho việc nghiên cứu của các tổ chức , cá nhân.

• Trong công tác tổ chức cán bộ thì còn thiếu cán bộ quản lý về du lịch, đặc biệt là những cán bộ có trình độ cao, được đào tạo đúng chuyên nghành du lịch. Hiện nay phòng có 4 biên chế gồm 1 lãnh đạo và 3 chuyên viên, vì vậy hoạt động của phòng trong những năm qua gặp không ít khó khăn

• Tuy đã có ban quản lý quy hoạch tại các điểm di tích, nhưng bộ phận này hoạt động kém hiệu quả, khả năng vận dụng lý thuyết vào thực tế còn hạn chế. Công tác chuyên môn còn nhiều tồn tại, nhất là việc thống kê, nghiên cứu. Tuyên truyền quảng bá giáo dục thì chỉ có tính khởi đầu, chất lượng chưa cao, chưa tiến hành một cách có hệ thống, thường xuyên, liên tục, đầu tư chưa tương xứng. Đây là một khó khăn lớn cho quy hoạch du lịch trong thời gian tới.

3.3.10. Vốn đầu tư

Võ Nhai là một huyện còn nghèo, cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung còn thiếu, yếu. Ngành du lịch hầu như chưa có gì. Điều này đặt ra nhiệm vụ cho Võ Nhai là phải nghiên cứu những giải giáp cụ thể nhằm tạo môi trường thuận lợi và khả năng thu hút đầu tư để xây xựng các cơ sở vui chơi giải trí, thể thao, vận chuyển khách, cơ sở sản xuất hàng lưu niệm, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ và các dịch vụ khác… Đó chính là nguồn tạo doanh thu cao. Hiện nay số lượng các dự án đầu tư ở Võ Nhai chưa nhiều, chỉ có một số doanh nghiệp và vốn của Nhà nước là chính, chưa thu hút được các dự án trong nước và nước ngoài vào đầu tư.

Xem tất cả 109 trang.

Ngày đăng: 12/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí